Hiệp Đức những ngày đầu thành lập với bao gian nan khó nhọc. Nhưng khó khăn lớn nhất vẫn là giao thông cách trở. Công trình cầu Tân An bắc qua sông Tranh giải quyết về bài toán giao thông nhằm tạo đột phá phát triển là một kỳ công của thời gian khó.
Khởi điểm trong thời gian khó
Nguyên Chủ tịch UBND, Bí thư Huyện ủy Hiệp Đức Thái Văn Lữ còn nhớ như in những ngày đầu thành lập huyện (25.2.1986). Lúc đó, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng Phạm Đức Nam nói, Hiệp Đức như 3 “cục xương” từ 3 huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Phước Sơn ghép lại thành một cơ thể sống.
Con đường ĐT105 nối từ quốc lộ (QL)1A tại Hương An (Quế Sơn) giáp với đường 16 (nay là QL14E) nối từ QL1A tại Thăng Bình qua Hiệp Đức, lên Phước Sơn quanh năm nắng bụi, mưa bùn, lại bị ngăn cách bởi nhiều suối, sông, trong đó có sông Tranh lớn nhất, lại rất dữ dằn vào mùa mưa bão. Trận lụt năm Giáp Thìn - 1964 như cơn đại hồng thủy, để lại nỗi kinh hoàng cho tới tận ngày nay, là một thí dụ.
Những ngày đầu thành lập, tất cả cơ quan của huyện đều ở và làm việc trong nhà dân. Trách nhiệm của Đảng bộ và chính quyền hết sức nặng nề. Vừa lo xây dựng, củng cố, kiện toàn bộ máy từ huyện đến cơ sở, vừa lập dự án xây dựng trụ sở làm việc cho các cơ quan huyện, còn phải lo chống đói, đau, bệnh tật, lo ăn ở, đi lại, học hành cho nhân dân trong giai đoạn chưa thoát ra khỏi cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp.
Dù đã ấp ủ trong nhiều năm, nhưng vì giữa lúc muôn vàn khó khăn, nên mãi đến đầu những năm 1990 Ban Thường vụ Huyện ủy mới dám bàn đến việc xin dự án xây dựng cầu Hiệp Đức (còn gọi là cầu Tân An).
Chỉ có xây dựng cầu Hiệp Đức mới tạo được đột phá trong kết cấu hạ tầng giao thông, là điểm nhấn quan trọng, xóa điểm ngăn cách giữa hai vùng đông - tây, mở ra hướng phát triển cho toàn khu vực. Nhưng câu chuyện đặt ra là, “tiền ở đâu?”, trong khi ngân sách huyện gần như chưa có bất cứ nguồn thu nào đáng kể. Ngân sách tỉnh cũng còn trong giai đoạn khó khăn. Chỉ có con đường duy nhất là dựa vào ngân sách Trung ương.
Vậy là, Ban Thường vụ Huyện ủy thống nhất chỉ đạo UBND huyện lập tờ trình xin chủ trương đầu tư. Được lãnh đạo tỉnh ủng hộ, các ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lập dự án đầu tư. Lãnh đạo huyện cùng lãnh đạo tỉnh bôn ba khăn gói ra Hà Nội xin dự án.
Sau khi được tin Trung ương nhất trí ghi kế hoạch vốn, Bộ GTVT phê duyệt dự án, ai nấy đều mừng vui đến rơi nước mắt.
Niềm vui nối nhịp đôi bờ
Sau hơn 6 năm, mọi việc chuẩn bị xong xuôi, đúng vào ngày 3.7.1997, tại bờ đông sông Tranh, thuộc khối phố An Tây, Tân An (nay là thị trấn Tân Bình) diễn ra lễ khởi công xây dựng cầu Hiệp Đức trong niềm hân hoan phấn khởi của cán bộ và nhân dân huyện nhà.
Chủ đầu tư là Sở GTVT tỉnh Quảng Nam, về sau chuyển sang Ban Quản lý Dự án đường bộ 5. Đơn vị thi công là Công ty Xây lắp công trình giao thông I. Cầu có chiều dài hơn 240m, mặt cầu rộng 9m. Tổng mức đầu tư hơn 18,1 tỷ đồng từ nguồn ngân sách Trung ương. Do nhiều lần điều chỉnh thiết kế kỹ thuật, nguồn kinh phí gặp khó khăn, lại phải thay đổi chủ đầu tư, nên mấy năm sau công trình mới được hoàn thành.
Ngày 30.8.2000, nhân Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVT cho huyện, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện đã phối hợp với Sở GTVT tổ chức lễ khánh thành và thông xe cầu Hiệp Đức. Ước mơ đã thành hiện thực.
Cầu Hiệp Đức hoàn thành, cùng tuyến QL14E và tuyến ĐT105 được nâng cấp, lập nên tuyến giao thông thông suốt từ đồng bằng lên vùng trung du, miền núi phía tây Quảng Nam, tạo đà phát triển toàn diện không những cho huyện Hiệp Đức mà còn cho một vùng rộng lớn phía tây của tỉnh.
Cầu giúp kết nối với đường Tây Trường Sơn, sau này là Đông Trường Sơn, và với đường Hồ Chí Minh, liên thông với các huyện Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang về hướng tây bắc; trên trục đường Đông Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh rẽ sang các tỉnh Kon Tum, Gia Lai về hướng đông nam. Xa hơn là đến với các cửa khẩu biên giới Lào và Campuchia.
Những sản phẩm nông, lâm nghiệp của bà con nông dân được vận chuyển thông suốt về miền xuôi tiêu thụ. Nhiều sản phẩm như xi măng, sắt thép, gạch ngói, xăng dầu cùng những mặt hàng thiết yếu khác từ đồng bằng được vận chuyển lên phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, xây dựng nhà cửa, đi lại, sinh hoạt cho bà con nhân dân vùng cao, tạo nên bước khởi sắc rõ rệt.
Và “hạnh phúc từng ngày đang tải qua đây”
Dẫu mang theo nỗi niềm riêng của mối tình trắc trở, nhưng vì quá mừng vui khi có được cây cầu lịch sử này, nhà thơ Dương Quang Anh quê Hiệp Đức trong bài “Nói với cầu Tân An” đã viết:
“…Ngày ấy mỗi năm cứ đến mùa bão lũ/ Đò chông chênh thác nước xoáy vực sâu/ Em và ta đã bao lần lỡ hẹn/ Thầm trách sông chẳng có một cây cầu/ Cũng bởi không cầu mà tình ta thêm lận đận/ Mẹ em bàn ra/ Lấy chồng bên ấy quá nhiêu khê/ Bất tiện viếng thăm lúc đi tới đi về/ Mẹ anh nghe lời ong tiếng ve như thế/ Chuyện tình ta lại cứ dùng dằng/ Năm Thìn lụt chi quá đỗi/ Một tháng ròng chẳng được ghé thăm nhau/ Em hoang mang/ Ngỡ anh thả cuộc tình theo dòng thác lũ/ Và người ta đến nhà/ Em gật đầu để mẹ nhận trầu cau/ Lại một cuộc tình thương đau/ Mưa dội bùn ngoài trời xối xả/ Như nước mắt dội vào lòng em mặn chát/ Anh ở bên ni lòng tan nát/ Như sông Tranh lở mất một mảng bờ/ Để đến bây giờ/ Hơn bốn mươi năm ta về lại/ Bến Tân An đã có một cây cầu/ Ví như ngày ấy có cầu/ Thì đâu đến đỗi dễ dầu mất nhau/ Ta hờn giận trách cầu sao muộn thế/ Nhưng cũng thôi đành/ Sau ta còn bao thế hệ/ Hạnh phúc từng ngày đang tải qua đây”.
Về sau, với sự nỗ lực của các thế hệ lãnh đạo kế nhiệm, những cây cầu như Trà Linh, Sông Khang và sắp đến là cầu Tân Bình bắc qua dòng sông Tranh, sông Khang mở ra nhiều tuyến giao thông thông suốt, nhất định sẽ là cơ hội cho sự phát triển toàn vùng.
Giữa lúc anh thợ ảnh chọn cho mình từng góc độ lý tưởng để ghi lại hình ảnh những cây cầu kia, tôi ngộ ra rằng, thời gian rồi cũng trôi đi, những tổ chức, cá nhân những người có công tạo nên cái vóc dáng uy nghi, sừng sững của những cây cầu kia rồi cũng sẽ lùi dần vào quá khứ, nhưng những cây cầu ấy mãi mãi là bà đỡ của “Hạnh phúc từng ngày đang tải qua đây”.