"Cổng trời" là cái tên có ở nhiều nơi dọc Trường Sơn, chỗ cao nhất trên những con đường qua biên giới Lào - Việt. Nhưng “Cổng trời” ở huyện Nam Giang lại hấp dẫn nhiều người, bởi con đường đến đây gắn liền với hàng loạt sự kiện lịch sử - văn hóa của người Kinh lẫn người Cơ Tu, Giẻ Triêng trong lịch sử cận và hiện đại. Ai đã đọc “Nhật ký chiến tranh” nhà văn Chu Cẩm Phong tả về khu vực này, thì nửa thế kỷ sau đã có nhiều thay đổi không thể nhận ra…
Cư dân dọc đường lên biên giới Việt - Lào. Ảnh: T.Đ.T |
Dọc đường 14 D
Bắt đầu từ ngã ba Bến Giằng trên đường Hồ Chí Minh là cây cầu De Lattre của hãng Eiffel được đưa từ Đà Nẵng lên để thay cho bến phà cách trở. Qua khỏi trung tâm hành chính huyện Nam Giang, chúng tôi tiếp tục đi theo đường 14D qua Ta Bhing, Chà Vàl, Đắc Ốc, qua các căn cứ xây dựng trong hai cuộc chiến tranh như Dốc Thở, Bốt Xít, thôn Ving, sân bay Chà Vàl… suốt chiều dài 74 cây số. Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh chạy dọc hai bên đường cùng những thác nước, con suối, cầu treo bên những xóm làng người dân tộc Cơ Tu, Giẻ Triêng còn khá nguyên sơ. Những cô gái Cơ Tu đi thành từng nhóm, vai mang gùi, dừng lại bên con suối trong xanh. Dọc đường còn có những cây đoác cung cấp loại rượu tà vạt lên men nổi tiếng của vùng này. Những ngôi nhà rông cuối năm vừa được làm mới với những hoa văn, đầu thú, cột xờ-nua của lễ đâm trâu, cờ phướn… biểu thị sự sung túc của mỗi làng…
Đường 13 nay là quốc lộ 14D kết thúc ở cửa khẩu Đắc Ốc trên độ cao 1.200m, sau khi vượt qua con đèo dài 20km giữa những cánh rừng nguyên sinh ngút mắt. Người Pháp đã mở con đường 13 và lập ra căn cứ Bốt Xit (Đồn số 6) để khống chế cả vùng biên giới từ năm 1937. Khi quân đội Mỹ đến Việt Nam đã tiếp tục sử dụng Bốt Xit làm bàn đạp và xây dựng thêm sân bay Chà Vàl gần đó, có thể sử dụng loại máy bay vận tải Dakota-C41 và trực thăng để thực hiện các cuộc hành quân chớp nhoáng đến vùng biên giới. Năm 1960, quân giải phóng chiếm lại Bốt Xit, đến năm 1967 sân bay Chà Vàl bị tập kích và xóa sổ. Năm 1973, Sư đoàn 472 thuộc đường dây 559 mở tiếp con đường từ Dốc Thở đến Pà Rồng về hướng tây, nối đông và tây Trường Sơn với tỉnh Sê Kông thuộc Nam Lào...
Những nhân vật như bà Zơrâm Thị Nhuôm, thầy giáo Blup Dzứ trong “Nhật ký chiến tranh” của Chu Cẩm Phong giờ vẫn còn sống ở làng Đắc Ốc, như những chứng nhân lịch sử. Đêm ở Đắc Ốc, trong không khí se lạnh, chúng tôi đã ngồi với nhà giáo Blup Dzứ xem các cô gái múa điệu da dá trong tiếng sáo đink túk đến mê hoặc.
Đêm ở “Cổng trời”
Bên kia “Cổng trời” là huyện Đắc Chưng nổi tiếng với giống ngựa thồ quý hiếm và là nguồn cung cấp cây dược liệu sa nhân nổi tiếng. Khuya, trên đỉnh “Cổng trời”, chúng tôi ngủ lại nhà khách Biên phòng Cửa khẩu và nghe các chiến sĩ trẻ kể chuyện thâu đêm. Bên ngoài, những chuyến xe chở vật tư sang Lào làm thủy điện Xê Ka Mán và những máy ủi đang san nền xây dựng khu kinh tế cửa khẩu vẫn hoạt động. Một dự án khách sạn gần “Cổng trời” nghe nói cũng đang được xây dựng từ khi Đắc Ốc được nâng cấp thành cửa khẩu quốc gia...
Tác giả trên quốc lộ 14D. |
Con sông Pứt trong nhật ký Chu Cẩm Phong vẫn chảy rì rào dưới chân “Cổng trời”. Bây giờ người ta chỉ mất một tiếng đồng hồ đi ô tô từ huyện lỵ Nam Giang lên cửa khẩu Đắc Ốc. Nếu đi từ Đà Nẵng thì chỉ mất hai tiếng. Những địa danh Ta Bhing, Chà Vàl... đã nhộn nhịp như những thị tứ, có bến xe khách chở người và hàng xuôi ngược mỗi ngày. Hạt bắp, nải chuối đi đến Đà Nẵng, Hội An đã có giá gấp 10 lần thuở núi rừng cách trở. Hạt muối, con cá tươi từ phía biển lên, những mặt hàng tiêu dùng, cả cái ti vi, chiếc xe máy và những đồ gia dụng đắt tiền cũng không còn gùi cõng nữa... Ban chiều, bà con Lào, Việt qua lại cửa khẩu đông vui, chào hỏi ríu rít khi làm thủ tục. Bà con người Giẻ Triêng hai bên có khi là họ hàng lẫn nhau nên coi như người nhà. Các y - bác sĩ ở đồn biên phòng Việt Nam cũng thường xuyên qua các buôn làng bạn để hỗ trợ về y tế, tiêm phòng dịch bệnh. Một biên giới yên vui…
Gần trong tầm tay
Tôi lần thứ ba trở lại làng Đắc Ốc trong vòng 3 năm kể khi con đường này hoàn tất mà vẫn ngỡ ngàng với những đổi thay ấy. Bà Zơrâm Thị Nhuôm từ những trang nhật ký của Chu Cẩm Phong nay đã gần 80 tuổi nhưng vẫn còn tỉnh táo. Các con lớn đã đi làm cán bộ. Trong bếp lửa giữa nhà, tuy ánh sáng không đủ, bà vẫn nhớ tên từng người và gói những hạt tiêu rừng gửi tặng chúng tôi. Ông Blup Dzứ giờ đã về hưu, nhưng là nhà giáo ưu tú đầu tiên của người Tà Riềng được Nhà nước phong tặng. Con dâu, con rể đông đúc. Mùa này, Blup Dzứ vẫn ra rẫy và bên những gùi lúa nặng, ông còn mang về chú heo rừng vừa bẫy được để đãi khách. Con đường vào làng đã đúc bê tông rộng, nhà nào cũng có ti vi thu tín hiệu từ chảo parabol. Có điện lưới quốc gia sử dụng. “Con sông Pứt rất to” vẫn rộng và chảy xiết nhưng đã được bắc cầu vĩnh cửu cho xe hạng nặng chạy qua công trường thủy điện Xê Ka Mán đang thi công trên đất Lào. Blup Dzứ vừa đun nước pha trà đãi khách vừa bình luận: “Có giao thông là có tất cả! Dân làng mình chừ sướng hơn ba bốn chục năm trước nhiều lắm! Có đứa đang học đại học, có đứa đi lao động bên Malaysia...”.
Đêm từ “Cổng trời” nhìn về phía đông, phía ngã ba sông Thanh, Chà Vàl, Bến Giằng, nơi con đường Trường Sơn xưa nay đã là xa lộ. Những vầng sáng bừng lên một góc trời, đó là những thị trấn, thị tứ sáng điện đêm đêm dọc “con sông Giằng gầm réo miên man…” trong thơ Dương Hương Ly thời đạn lửa. Tuy cách phía biển Đà Nẵng đến hơn 150km, nhưng “Cổng trời” vẫn như gần nhau trong tầm tay.
TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG