Những “tên tuổi hiện đại” cỡ như Festival Huế, Lễ hội hoa Đà Lạt, Hành trình di sản Quảng Nam… hoặc những lễ hội truyền thống như lễ hội cầu an bản Mường, lễ hội hoa ban của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc; lễ hội Chùa Hương, đền Hùng, lễ hội Gióng, Đống Đa (ở miền Bắc), lễ cầu ngư, Dinh Thầy - Thím, lễ hội Kate (ở miền Trung); lễ Cơm mới, Bà chúa xứ, lễ hội Ok Om Bok (ở Nam bộ); lễ đâm trâu, đua voi (ở Tây nguyên)… Còn biết bao lễ hội nữa mà nếu liệt kê, e rằng sẽ lê thê lượt thượt đến… hết cả bốn mùa! Tạm thống kê, thì có sách nói rằng: năm 2009, cả nước có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương và Phú Thọ. Trong số 7.039 lễ hội ấy, chỉ có 27 lễ hội được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, như: Hội Gióng (Hà Nội), hội Lim (Bắc Ninh), lễ hội Nhảy lửa của người Pà Thẻn (Hà Giang), lễ hội Chọi trâu Đồ Sơn (Hải Phòng), lễ hội Cầu Ngư (Khánh Hòa), lễ hội Kỳ yên ở đình Gia Lộc (Tây Ninh)… Ôi trời ơi, vì sao mà hai con số (7.039 và 27) do cơ quan thống kê đưa ra lại chênh lệch quá cỡ thợ mộc vậy?
Lễ rước sắc trong một lễ hội ở Quảng Nam. Ảnh: PHƯƠNG THẢO |
Nói theo cái giọng có vẻ hơi hơi khinh bạc như thế, mới nghe qua, dễ bị hiểu là… dị ứng với lễ hội. Ngay lập tức, xin dẫn trưng “định nghĩa”, đặng mà giải tỏa cái sự hiểu nhầm kia, rằng: “Lễ” là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống… “Hội” là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống”.
Rõ ràng ràng như thế đấy. Thế thì, một con dân Việt, lẽ nào lại thờ ơ với chính một trong những điều làm nên một phần đời sống tinh thần của chính mình? Lẽ nào, có ai không từng lưu giữ ít nhiều ấn tượng tốt đẹp về tiếng trống rộn ràng thúc giục và những bóng cờ ngũ sắc, về những tiếng hò câu hát và những trò chơi dân gian… trong chí ít đôi lần cùng cha mẹ, anh chị hoặc những người thân tham dự lễ hội từ thời niên thiếu? Dù có được nhận thức hay không, cái ánh hồi quang từ những sinh hoạt văn hóa cộng đồng ấy vẫn cứ soi chiếu trong thời gian sống của mỗi người chúng ta, là một phần làm nên tình quê nghĩa nước. Lễ hội chính là một trong những cái - biểu - hiện của truyền thống Việt.
Lễ hội “chân chính” vốn xuất phát từ niềm tin; và trong niềm tin, hẳn nhiên có nhiều loại, trong đó có sự mê tín. Mê tín đã có đất đứng từ xa xưa trong lịch sử, giờ đây lại càng có điều kiện sống lại. Điều ấy cũng là một tất yếu, sau một thời gian dài bị những cực đoan của tinh thần duy lý đẩy lùi; sau những năm “lặng lẽ” trong thời khó khăn của một đất nước vừa ngưng tiếng đạn bom, lễ hội những năm gần đây dần dần lớn dậy mạnh mẽ. Cùng với du khách nước ngoài và khách du lịch, những chuyến hành hương trong nước không ngừng tăng lên, lễ hội được mùa, nở rộ. Nhiều hoa trong vườn, tất nhiên là vui mắt. Nhưng có lẽ cũng tất nhiên, vườn cần được chăm sóc chu đáo hơn. Để đẹp vườn hơn, để tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền của…
Trước tình hình “loạn lễ hội”, mới đây, GS.TS Võ Tòng Xuân - nguyên phó Hiệu trưởng trường Đại học Cần Thơ - cho rằng: “Quá nhiều lễ hội, Việt Nam cổ súy cho sự lười biếng, cho những hành động rất phi văn hóa… Bên cạnh việc gây lãng phí lớn…”. GS Xuân nói thêm: “Hiện nay, có rất nhiều lễ hội giống nhau, cái nào cũng giống cái nào. Thậm chí, 2 làng sát nhau có 2 lễ hội giống y hệt nhau nhưng người dân vẫn “thấy hội là đi”. Cho nên dù có nhiều lễ hội thì Việt Nam cũng không phải là may mắn hay là vui vẻ gì. Chúng ta tổ chức lễ hội để bảo tồn văn hóa lịch sử thì phải tôn trọng lịch sử. Nếu lễ hội nào gắn với sự tích linh thiêng, có tính chất quốc gia, phản ánh được văn hóa truyền thống thì để lại, lễ hội nào không tiêu biểu, chỉ mang tính địa phương thì không nên khuyến khích cử hành lễ linh đình, rầm rộ, gây ra sự tốn kém”.
Mỗi tỉnh, thành liệu đã thử tính toán, rằng hằng năm, những lễ hội diễn ra trong địa phương mình đã “ngốn” hết bao nhiêu tiền? Để đem lại kết quả gì, cả về tiền bạc lẫn những trái quả không đo đếm, không nhìn thấy được? Tiền thì dễ đếm, nhưng lợi ích “phi vật thể” e rằng còn phải… tranh luận. Bởi, mọi việc không thể chỉ tính bằng tiền. Vậy thì vấn đề là ở trình độ, kiến thức, bản lĩnh tổ chức, quản lý. Nhưng trên tất cả, là sự trung thực, là trách nhiệm. Bởi, đã có biết bao lãng phí cho những nhân danh. Mà hàng đống giấy bạc không-đem-lại-gì kia, phải gọi tên thế nào đây, nếu không là sông-mồ-hôi, suối-nước-mắt?
Tổ chức lễ hội là việc cần có hiểu biết rộng và chuyên môn cao, là một loại nghệ thuật - kỹ thuật.
Nhưng đầu tiên và cuối cùng, lễ hội là tình yêu. Đầu tiên là tình yêu quê hương của người tổ chức lễ hội: vì chính cái cộng đồng mà họ đã sinh ra và lớn lên. Cuối cùng, là tình yêu của những người dân tham gia vui chơi - tưởng nhớ - tìm hiểu trong mỗi lễ hội.
Mấy năm nay, báo chí phản ánh khá nhiều về những tệ trạng từ lễ hội. Như việc hàng ngàn người đổ xô đi “xin ấn” ở Nam Định (nói mãi, đã mấy năm rồi mà “vũ như cẩn”)... Nghĩ gì và sẽ làm gì trước sự việc mà ý nghĩa xã hội của nó không hề là “chuyện nhỏ” chút nào? Nghĩ gì, và sẽ làm gì khi không ít một số viên chức có trách nhiệm cũng “vui vẻ” tham gia trong việc khuếch trương các loại lễ hội… bộn bề phức tạp ấy?
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT