Những năm đầu thế kỷ 20, tại vùng Tý, Sé (xã Quế Lâm, huyện Nông Sơn ngày nay) đã từng hình thành một đội quân đặc biệt tham gia cuộc khởi nghĩa do Thái Phiên, Trần Cao Vân khởi xướng. Họ gồm những người nông dân với trang phục áo rằn trang bị vũ khí thô sơ như dao phay, giáo mác, gậy gộc nhưng có tinh thần yêu nước sục sôi, muốn góp một phần công sức của mình để bảo vệ quê hương, đất nước...
Địa thế núi non hiểm trở của vùng Tý, Sé. Ảnh: AN TRƯỜNG |
1. Tháng 5.1912, tại Quảng Đông (Trung Quốc), nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã quyết định đổi tên Duy Tân hội thành Việt Nam Quang phục hội, cử Lâm Quảng Trung về nước tìm cách bắt liên lạc với Thái Phiên và một số chí sĩ yêu nước khác để xây dựng hội ở Nam Trung kỳ. Kể từ thời gian này trở đi, các chí sĩ, sĩ phu yêu nước tại Quảng Nam đã tập trung xung quanh Thái Phiên để vận động khởi nghĩa nhằm đánh đổ thực dân Pháp và lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, lập ra An Nam cộng hòa dân quốc. Ở Quảng Nam, phong trào này phát triển rất mạnh ở hầu hết các tổng trong tỉnh, đặc biệt là ở tổng Trung Lộc (huyện Nông Sơn ngày nay) và ông Đặng Văn Bí là người tham gia tích cực nhất cho cuộc vận động tại tổng này.
Ông Đặng Văn Bí (hay còn gọi là Đặng Lãm), bí danh là Bạch Linh, là một thầy thuốc bắc có tiếng ở trong vùng Trung Lộc. Năm 1908, hưởng ứng phong trào chống xâu, sưu thuế ở Trung kỳ, ông cùng với các ông Đặng Tiễn, Lương Khanh, Bá Hội, Nguyễn Đình Duân... đã đứng lên tập hợp quần chúng, vận động bà con, nhân dân trong tổng Trung Lộc ngày đêm chuẩn bị mã tấu, gậy gộc tổ chức kéo về huyện hợp sức với các tổng khác trong toàn tỉnh kéo ra tòa Công sứ Hội An để đấu tranh đòi giảm sưu thuế. Trước tình hình đó, để bảo vệ tòa Công sứ ở Hội An, thực dân Pháp đã điều động lính khố đỏ và lính triều đình đóng ở tỉnh kéo tới ngăn chặn cả hai đầu từ Vĩnh Điện đi Hội An để đàn áp nhân dân. Không may, ông Đặng Văn Bí và Nguyễn Đình Duân bị bắt đưa về tỉnh tra tấn rất dã man nhưng hai ông vẫn một mực không khai báo những người cầm đầu khác ở tổng Trung Lộc. Sau đó, Đặng Văn Bí và Nguyễn Đình Duân bị xử án mỗi người 9 năm tù...
2. Ngay sau khi ra tù, hưởng ứng lời kêu gọi của Thái Phiên, Đặng Văn Bí đã đứng ra tổ chức cuộc vận động nhân dân trong tổng đứng lên khởi nghĩa. Với uy tín của mình, ông đứng ra chiêu mộ và lập một đội nghĩa binh gồm những người nông dân chân lấm tay bùn nhưng có tinh thần yêu nước với gần 300 người ở vùng Tý, Sé (xã Quế Lâm, Nông Sơn) và giao cho Nguyễn Hữu Ân (người xã Quế Phước) làm chỉ huy, chọn vùng Tý, Sé để quy tụ và đốc thúc nghĩa binh luyện tập, chuẩn bị khởi nghĩa. Sở dĩ vùng Tý, Sé được chọn làm căn cứ khởi binh vì nơi đây lúc bấy giờ vẫn còn là chốn rừng thiêng, nước độc có địa thế hiểm trở, dễ phòng thủ, khó tấn công. Từ nơi đây có thể tiến quân đánh địch từ mọi phía, đồng thời tổ chức phòng thủ để có thể chống trả được các cuộc tấn công từ mọi hướng của giặc Pháp. Hơn nữa, vùng này lại giàu có về lâm khoáng sản, có thể khai thác mỏ để rèn đúc vũ khí. Thêm vào đó, nơi đây lại có đủ nguồn lương thực để duy trì việc nuôi quân chiến đấu lâu dài vì đất đai rộng lớn, phì nhiêu, màu mỡ... Trong trường hợp bị bao vây có thể tự sản xuất lương thực tại chỗ để phục vụ cho nghĩa quân.
Từ vùng Tý, Sé, các đội nghĩa binh nông dân ở các tổng lân cận trong huyện Quế Sơn bắt đầu được nhen nhóm thành lập. Đặc biệt ở làng Phước Ninh có ông Nguyễn Đình Hòe bí mật đến các làng vận động nhân dân tham gia nghĩa binh và vận động các nhân sĩ góp của, các thợ rèn góp công tổ chức rèn đúc dao phay, vũ khí cung cấp cho nghĩa binh tại các lò rèn ở Hòn Giang, Vườn Cò, Xóm Trên, Dốc Hoàng... Công việc chuẩn bị khởi nghĩa diễn ra rất khẩn trương và đầy khí thế, các làng xã, thôn xóm náo nức lập các đội nghĩa binh, quyên góp tiền bạc, lương thực, bí mật rèn sắm vũ khí, may áo rằn để trang bị cho nghĩa quân. Sau một thời gian ngắn, đạo nghĩa binh ở Trung Lộc có hàng nghìn người tham gia. Tất cả nghĩa binh các nơi đều mặc áo rằn, trang bị vũ khí thô sơ là dao phay, mã tấu nên cuộc khởi nghĩa này về sau được gọi là cuộc khởi nghĩa của đội quân dao phay áo rằn. Đây có thể nói là một đội quân rất đặc biệt bao gồm những người nông dân chỉ biết gắn bó với công việc nhà nông, chưa hề biết đến binh đao, chiến trận nhưng vẫn luôn sẵn sàng ra trận khi có giặc xâm lăng, vẫn một lòng vì sự tồn vong của đất nước, vì sự thanh bình của quê hương.
3. Ở tổng Trung Lộc lúc bấy giờ, mọi công việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ngày càng sôi nổi và khẩn trương dưới sự chỉ huy của các ông Đặng Văn Bí, Đặng Tiễn, Nguyễn Hoan... Tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ chờ giờ G. khi ám hiệu khởi nghĩa được phát đi là đồng loạt nổi dậy. Tuy nhiên đến giờ G. đã định là giờ Tý ngày 2 tháng 4 năm Bính Thìn (tức 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5 năm 1916) vẫn chưa có hiệu lệnh khởi nghĩa. Cuộc vận động khởi nghĩa do Thái Phiên, Trần Cao Vân khởi xướng chưa nổ ra thì đã bị bại lộ, thực dân Pháp tiến hành đàn áp, bắt bớ, thu giữ toàn bộ vũ khí và ra lệnh giới nghiêm toàn Trung kỳ. Vua Duy Tân cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân trốn khỏi kinh thành Huế nhưng mấy ngày sau đã bị thực dân Pháp bắt được.
Riêng khu vực tổng Trung Lộc, quân Pháp và lính Nam triều kéo đến vây ráp, khủng bố bắt ông Nguyễn Hoan đày đi biệt xứ ở Côn Đảo, kết án ông Đặng Văn Bí mười hai năm tù và đưa đi giam cầm ở nhà lao Phú Yên. Đội nghĩa binh nông dân dao phay áo rằn do Đặng Văn Bí thành lập tan rã do vũ khí thô sơ không thể chống lại với súng đạn của thực dân Pháp, phong trào từ đây bị lắng xuống. Ở trong tù, ông Đặng Văn Bí chịu nhiều nhục hình tra tấn nhưng vẫn giữ khí tiết trung kiên của một người yêu nước, dám xả thân vì dân, vì non sông xã tắc. Một năm sau khi bị bắt giam (năm 1917), ông Đặng Văn Bí đã mất tại nhà lao Phú Yên...
Mặc dầu cuộc khởi nghĩa của đội quân nông dân do Đặng Văn Bí chỉ huy thất bại, nhưng tiếng vang của nó vẫn còn lưu truyền về tinh thần yêu nước, quật khởi của những người nông dân chân lấm tay bùn với vũ khí thô sơ nhưng dám đứng lên chống lại sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp. Với đội nghĩa binh nông dân do Đặng Văn Bí chiêu mộ và Nguyễn Hữu Ân chỉ huy đã cho thấy được được khí phách, tinh thần yêu nước mãnh liệt, ý chí kiên cường bất khuất của nhân dân Quảng Nam nói chung và nhân dân Trung Lộc, Nông Sơn nói riêng trong những năm đầu thế kỷ 20...
AN TRƯỜNG