Đường phố đan kín người và người. Họ đến để giũ bỏ bụi bặm đường xa, thân tâm nhẹ tênh, lắng nghe sự huyền nhiệm của Dharamsala, tưởng như vô vàn tiếng gió ngàn nơi đây cũng thành lời diệu pháp…
Trải dài dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn là những cánh rừng thông cao vút bạt ngàn. Người Ấn Độ bản địa ở vùng núi non nơi đây gọi tên loại thông này là tuyết tùng hy. Tôi đoán chừng là giống cây tùng trên núi tuyết Hy Mã Lạp Sơn mọc trải dài xuống tận chân núi. Nhưng thấy trong một vài sách hướng dẫn thì ghi tên loài thông này là Himalayan cedar.
Giữa xanh ngắt tuyết tùng hy.Ảnh: N.N.TIÊN |
Cao nguyên Dharamsala nằm trong hệ thống chân núi Hy Mã Lạp Sơn trên độ cao 1.600 mét thuộc bang Himachal Pradesh. Đây là một trong những trung tâm Phật học lâu đời nhất, nghe đâu thắng tích này từng lưu lại dấu chân của ngài Huyền Trang trên đường thỉnh kinh Tây Trúc. Dù là miền cao nguyên ở vùng cực bắc của Ấn Độ và đang thời điểm mùa hè, nhưng khí hậu nơi đây khá mát mẻ, không oi bức và hừng hực những cơn gió sa mạc thổi ngày đêm như ở New Delhi. Có những đêm lạnh, sa mù giăng kín núi đồi thị trấn, tôi một mình đi dạo trên những con đường phố nhỏ nhấp nhô đồi dốc, mặc sức cho trí tưởng lang thang trên xứ sở núi tuyết thuộc vào hàng khai thiên lập địa của đất nước Ấn Độ.
Người ta chia Dharamsala ra làm 3 vùng: vùng cao nhất có tên gọi là Meleod Ganj, vùng chính giữa là Kotwali Baza và vùng thấp nhất giáp với đồng bằng là Kacheri. Vì những lý do lịch sử nên Chính phủ Ấn Độ từ lâu đã cho phép người Tây Tạng tha phương được định cư trên cao nguyên này. Hầu hết người Tây Tạng tại đây sinh sống trên vùng núi cao nhất Meleod Ganj. Những ngày trên đất nước Ấn Độ, tôi ở trong một khách sạn trên cái vùng núi non chênh vênh – “tiểu Lhasa” ấy. Cũng vì thế, không dưng mà tôi được làm người “láng giềng” của 2 xứ sở: Ấn Độ và Tây Tạng - nơi mà sự huyền nhiệm của thổ nhưỡng, con người mãi là bí mật, luôn kích thích mọi người từ khắp các châu lục đổ về khám phá. Có thể đấy là đoàn người mộ đạo hành hương về đất Phật với phát nguyện được chiêm bái các thắng tích: Bồ Đề Đạo tràng (Bodhgaya), vườn Lộc uyển (Sarnath), rừng Sa La (Kusinara), kể cả quá cảnh Nepal viếng vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi Đức Thích Ca chào đời. Có thể đấy là những người muốn được khám phá “thánh tẩy” trên sông Hằng, được ngắm nhìn cảnh huyền bí nhất tại Varanasi nằm kề bên bờ sông, nơi các tín đồ Ấn giáo tập trung hành lễ cầu nguyện và gội rửa mọi bụi bặm tội lỗi.
Tác giả (giữa) ở Dharamsala. |
Bạn là người say mê những di sản nổi tiếng thế giới hay là nghệ thuật kiến trúc cổ thuộc vào hàng xa xưa nhất? Đất nước Ấn Độ giàu có những di sản ấy, đến nỗi gọi đấy là những con đường vô tận cũng được, bởi tôi tin rằng khó có thể cho bất cứ ai khám phá được hết tất cả chiều kích cái đẹp và lớp lớp tầng vỉa văn hóa trên đất nước bao la này. Từ hang động Ajanta, khu di tích vùng Ellora miền tây Ấn với những kiệt tác mỹ thuật trong các ngôi chùa hang cho đến những đền đài cổ Vishvanatha miền trung Ấn ở Khajuraho. Từ những bảo tháp phật giáo Sanchi đến pháo đài cổ Agra. Ngay như Tagore - người mà cả dân tộc Ấn Độ tụng xưng là bậc Thánh sư, là “Gurudev” - khi đứng trước lăng Taj Mahal cũng đã phải thốt lên: “Đây là một bài thơ tình yêu bằng đá cẩm thạch”. Dường như bất cứ ai đã từng đến Ấn Độ, từng chiêm ngưỡng sự kỳ vĩ của lăng tẩm Taj Mahal, đều hiểu rằng đấy là biểu tượng về cái đẹp, không chỉ của một dân tộc, mà còn là di sản văn hóa nhân loại. Còn người dân Ấn thì lúc nào cũng giàu có sự lãng mạn, họ nói theo tinh thần Tagore, rằng đấy là bài thơ tình yêu vĩnh hằng!
Trên đường tới Dharamsala, tôi chỉ có hơn hai đêm dừng lại tại New Delhi. Ngần ấy thời gian thì thấy được gì, hiểu được gì về thủ đô rộng lớn của một đất nước mênh mông như Ấn Độ. Ngồi trên ô tô mà quan sát thì quả chỉ là lướt qua như một cơn gió thoảng, nó còn tệ hại hơn cả sự ví von “cưỡi ngựa xem hoa”. Những con đường phố rộng thênh thang chạy dài như thẳng tới chân trời, lại tầng trên tầng dưới, và trong lòng đất “chứa” cả mạng lưới metro hiện đại ngang dọc.
Người tài xế chừng như hiểu được sự khát khao ngắm nhìn xứ lạ của những vị khách trên xe, và cũng có thể như muốn giới thiệu cho những người khách nước ngoài về thủ đô xinh đẹp của mình. Anh cho xe chạy lòng vòng qua các công trình kiến trúc đồ sộ như phủ tổng thống, tòa nhà quốc hội và cổng Ấn Độ - công trình cao vút ửng màu đá đỏ dưới nền trời xanh, nơi tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh qua các cuộc chiến tranh. Nhưng những tòa nhà, cao ốc, biệt thự lộng lẫy, hệ thống giao thông tầng tầng lớp lớp của một New Delhi hiện đại vẫn không làm tôi choáng ngợp bằng những thành phố cổ kính lâu đời. Chính từng tác phẩm kiến trúc có tuổi tác trăm năm, ngàn năm, từ Delhi cho đến Khajuraho, từ Orchha cho đến Jaipur hay Vanares, Calcutta… đã minh chứng về sức sống vĩnh cửu: Nghệ thuật thì trường tồn còn thời gian chỉ là thoáng qua.
Delhi cổ xưa nằm bên hai bờ dòng Yamuna được người Ấn kiêu hãnh bảo là xứ sở có cư dân lâu đời nhất của nhân loại. Bạn thử tưởng tượng bên cạnh những lâu đài cao ốc nguy nga đồ sộ là những túp lều vải rách nát tạm bợ, bên những xe hơi bóng lộng vi vút trên đường phố là một đàn bò thủng thỉnh thản nhiên đi giữa đường phố như nhẩn nha tìm cỏ gặm giữa đồi hoang. Những chiếc xe lôi nặng nề của thời nào xa lơ xa lắc, người đạp còng lưng kéo theo sau hàng núi đồ cồng kềnh như thi thố ngược chiều với những chiếc mô tô phân khối lớn. Cho dù thời tiết hầm hập nắng nóng, những cô gái Ấn vẫn sari truyền thống mặc choàng kín từ đầu đến chân. Và còn gì nữa, những chiếc xe tuk tuk ba bánh máy nổ chát chúa phì khói trên đường, bác thợ cắt tóc dạo hành nghề dưới bóng râm cổ thụ bên đường, mấy kẻ ăn xin nằm ngủ trên vỉa hè… Cái giàu có và cái nghèo đói đến tả tơi cùng phơi bày ra trước nhật nguyệt. Cái cổ xưa và cả cái lạc hậu cùng với sự hiện đại tột cùng ngược chiều nhau, nhưng lại cùng tồn tại trong một thời gian, một không gian. Và đấy cũng là một đặc điểm của Delhi, của nhiều thành phố khác ở Ấn Độ. Bỗng dưng tôi nhớ đến những câu thơ của Tagore: Bạn ơi, đến đây đừng nao lòng/ Hãy bước đi trên trái đất cằn khô!
Dharamsala không như bất cứ thành phố nào trên đất nước Ấn Độ, có vẻ còn mang dáng dấp một thị trấn phố núi nhỏ nhoi ẩn mình trong cổ tích, trong xanh, bình yên đến lặng lẽ. Những con đường phố nhỏ hẹp và dốc ngược, hai bên đường kín những hàng quán và ki-ốt nhỏ bày bán hàng hóa lưu niệm cho khách du lịch. Những cái chợ xép nhỏ như không thể còn nhỏ hơn ở đầu phố này, cuối phố kia lô nhô ra cả mặt đường. Tất cả chuyện buôn bán từ vặt vãnh đến buôn bán lớn, từ mớ rau xanh, thúng củ quả đến nhà hàng ăn uống khách sạn… đều do đàn ông con trai lo liệu, ít thấy bóng dáng của phụ nữ Ấn. Nhưng mọi sinh hoạt thường nhật đó không phải là gương mặt sức sống của Dharamsala, mà chính là những tu viện lớn đầy nghiêm mật thoáng ẩn thoáng hiện dưới bóng núi xanh biếc tuyết tùng hy. Hóa ra sức sống tâm linh không hề có sức vang dội mà sự chuyển hóa đến vô bờ.
Những ngày ở Dharamsala, lang thang dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, tôi có dịp vào viếng các tu viện Namgyal, Monatery, Gyuto Tantric Monastic University, lẫn trong hàng ngàn hàng vạn người đủ các màu da, đủ các sắc tộc. Đường phố đan kín người và người. Họ đến cho kịp một ngày pháp hội, hay họ đến cũng như tôi, giũ bỏ bụi bặm đường xa, thân tâm nhẹ tênh đi giữa đất trời, lắng nghe sự huyền nhiệm của Dharamsala, tưởng như vô vàn tiếng gió ngàn nơi đây cũng thành lời diệu pháp!
Bút ký của NGUYỂN NHÃ TIÊN