Trong chuyến công tác cùng đội cắm mốc biên giới hai tỉnh Quảng Nam – Sê Kông đến tá túc tại bản Tăng Noong (Lào), tình cờ tôi được nghe câu chuyện thú vị về hành trình cây lúa nước của Việt Nam du nhập sang đây.
Ông Thọn Khăm, Chủ tịch Mặt trận bản Tăng Noong, hồ hởi khoe chuyện khai hoang trồng cây lúa nước của mình với giọng đầy tự hào: “Nhà mình có 5 héc ta, nhiều nhất bản, lúa làm ra ăn không hết”. Theo lời ông Thọn Khăn, khi mới giải phóng, đồng bào các bộ tộc Lào ở bản Tăng Noong không đủ cái ăn, cây lúa nếp trên rẫy hái về không đầy gùi. Đến mùa gặt họ thường sang bên Việt Nam giúp người thân, bạn bè Cơ Tu của hai huyện Nam Giang và Tây Giang (Quảng Nam) thu hoạch lúa. Thấy trúng quá, lúa cầm nặng tay, sướng con mắt lắm. Bạn bè bên ấy cho mang về cả gùi nhưng không ăn mà để dành làm giống. Hồi đó bà con Tăng Noong cũng học theo đồng bào Cơ Tu, vỡ đất cấy lúa nhưng đến kỳ trổ hạt bông lúa cứ dựng đứng, lép kẹp như mũi giáo của trai làng đi săn con thú. Rồi ông Zơ Râm Pao, Phó Chủ tịch UBND xã La Êê (hiện đã nghỉ hưu ở thôn A Sò, xã La Êê, Quảng Nam) sang chỉ cho cách lấy nước suối đưa về ruộng thường xuyên chứ không phải chỉ đưa nước về lúc cấy hoặc gieo hạt và bỏ hẳn lúa rẫy. Từ đó mỗi lần thu hoạch, gùi nhiều lần về nhà mà vẫn chưa hết lúa bà con ưng cái bụng lắm, rồi họ thi nhau khai khẩn thêm ruộng đất dọc những con suối. Chỗ nào đất cao quá là be bờ chắn, làm máng dẫn nước về ruộng. Tiếp sau, Zơ Râm Pênh (con của ông Zơ Râm Pao), cán bộ của Đồn Biên phòng La Êê, đi công tác sang Tăng Noong, Tăng Ta Lăng mang theo sách hướng dẫn về cách ủ lá cây, làm chuồng cho trâu bò để lấy phân bón cho cây lúa nữa. Lúa bây giờ trúng lắm. Bà con ở đây quý Pao, quý Pênh lắm.
Nhờ canh tác theo kỹ thuật trồng lúa nước bên Việt Nam, người dân Tăng Noong không còn đói ăn mùa giáp hạt.Ảnh: MINH HẢI |
Nhưng cây lúa Việt bén rễ vào đất Lào còn xưa hơn chuyện kể của ông Thọn Khăn. Già làng Thon Đề cho biết: “Cắm cây lúa nước đầu tiên ở Tăng Noong này là ông Lê Viết Muồng người Hội An (Quảng Nam), hồi đó ông Muồng là quân tình nguyện chiến đấu ở Nam Lào. Sau này ông lấy vợ Lào đặt luôn lại tên là Phun Nhơn, rồi làm Bí thư, Tỉnh trưởng tỉnh Sê Kông. Lúc chiến tranh, ông Muồng đã dạy cho dân bản này cấy lúa nước, để vừa có cái ăn, ổn định cuộc sống vừa giúp kháng chiến. Sau ông Muồng là đến ông Zơ Râm Ghin, già làng có uy tín của huyện Nam Giang, cũng là người anh em của bà con các bộ tộc Lào”. Già Đề có người bạn thân là ông Zơ Râm Ghin, từng tham gia chiến đấu, làm giao liên gùi đạn ở chiến trường Đại Lộc, Đắc Pre (Nam Giang), A Sò (Tây Giang). Hồi kháng chiến, ông Ghin thường sang Tăng Noong chỉ bảo dân bản cách trồng, cách lấy nước đưa về ruộng. Không chỉ giúp Tăng Noong ông Ghin còn đến các bản Tăng Dơi, Tăng Ta Lăng, A Dun để nhân rộng kỹ thuật cây lúa nước. Một điều thú vị, ông Zơ Râm Ghin chính là bác ruột của Zơ Râm Pao.
Chỉ có 20 nóc nhà với 240 nhân khẩu, nhưng bản Tăng Noong của huyện Đắc Chưng (Sê Kông, Lào) lại có đến 3 cánh đồng ở sát biên giới. Điều đặc biệt là cây lúa ở đây có nguồn gốc từ Việt Nam, được gieo trồng, chăm sóc theo hướng dẫn của đồng bào Cơ Tu, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam. |
Vậy là cây lúa nước ở các bản Lào vùng giáp biên với Việt Nam gồm Tăng Noong, Tăng Ta Lăng, Tăng Dơi… đều do người Việt cho giống và hướng dẫn kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc. Trong hành trình phát triển cây lúa ấy, ngoài ông Lê Viết Muồng còn có đến ba thế hệ trong một gia đình người dân tộc Cơ Tu ở Nam Giang đã giúp nhân dân vùng biên của Lào tự chủ được nguồn lương thực, thoát khỏi cảnh đói ăn mùa giáp hạt.
Hơn 10 năm phá núi khai hoang, be bờ làm mương dẫn nước về ruộng người dân Tăng Noong đã có được cánh đồng gần 40 héc ta. Ông Thọn Khăm bộc bạch: Dân số ở bản Tăng Noong còn ít, chỉ 240 người, trong đó trẻ con chiếm hơn một nửa, lúa thì làm ra nhiều nhưng ăn không hết, thậm chí có nhà thu hoạch không kịp nên lúa rụng đầy đồng. Kỹ thuật trồng lúa nước của bà con Cơ Tu bên Việt Nam áp dụng cho cây lúa nếp của Lào rất tốt.
Quốc Vũ