SAU khi từ Phước Hà quay lại khu vực giáp ranh giữa Tam Phước với Sơn - Cẩm - Hà, đứng trên đỉnh đèo Eo Gió, anh Hai tôi ngó xuống vùng Kỳ Bình thấy cả một rừng cờ giải phóng phấp phới bay trên những ngọn sưa cổ thụ trong ánh nắng ban mai, làm khuất lấp hai lá cờ ba que cắm chơ vơ lạc lõng ở hai điểm chốt Rừng Nhưng, Núi Vũ.
|
Tam Kỳ ngày giải phóng 24.3.1975. Ảnh tư liệu |
Lịch sử đã sang trang.
Quãng thời gian cả hai bên nghiêm chỉnh thực thi Hiệp định Paris - 1973 là những tháng ngày anh Hai tôi nhớ mãi không quên. Công binh mở các nhánh rẽ đường Trường Sơn xuống tận khu vực ở bên kia sông Tranh thuộc địa phận Hiệp Đức. Xe ô tô Gat 63 và Zin 130 nối nhau thành một đoàn dài chở thuốc men, đạn dược, vũ khí, quân trang quân dụng và lương thực thực phẩm từ miền Bắc vào tập kết lộ thiên ở bên bờ sông Tranh. Hàng hóa, súng đạn chất cao như núi. Đại đội vận tải CT45 của anh Hai tôi đi cõng hàng giữa thanh thiên bạch nhật từ bến phà Tân An về Phước Hà, Thăng Phước mà không sợ phi pháo địch bất ngờ dập xuống đội hình như trước nữa. Máy bay trinh sát L19 của quân ngụy quần lượn trên trời nhìn thấy bộ đội ta đi lại, hoạt động công khai dưới mặt đất nhưng không hề có động thái gì. Cuối xuân 1973, cơ quan Khu ủy khu 5 từ căn cứ Nước Oa (Bắc Trà My) cũng gấp rút di chuyển xuống Hiệp Đức để đặt đại bản doanh tại khu căn cứ Phước Trà. Anh Hai tôi nhớ lại: “Khi Hiệp định Paris được thực thi, bộ đội ta tập trung quân về vùng rừng núi thuộc địa phận Hiệp Đức rất đông. Đơn vị CT45, ngoài nhiệm vụ cõng hàng cung cấp cho các tiểu đoàn D70, D72, D74 và D10, còn phải lo chặt cây gỗ, đốn tre, cắt tranh dựng hội trường, làm nhà ở phục vụ cho “phái đoàn bốn bên” lưu trú trong quá trình đi thị sát kiểm tra tình hình thực hiện Hiệp định Paris của cả hai bên”.
Hòa bình đang đến gần. Bộ đội ta và quân ngụy ở khu vực giáp ranh thường hay qua lại thăm nhau, thi đấu bóng chuyền giao hữu rất vui.
Anh Hai tôi vẫn còn nhớ mãi chuyến đi cõng hàng cùng đơn vị ở Sơn Long (Quế Sơn). Đơn vị CT45 gồm cả trăm người, súng AK quàng vai, lưng cõng gùi hàng cao lút đầu, cứ lặng lẽ nối bước nhau dưới chân đồi giữa trời trưa nắng gắt. Quân ngụy ôm súng đứng ngồi lố nhố trên đồi dõi theo. Khoảng cách giữa hai bên chừng vài ba chục mét. Hết xuống đèo lại leo lên dốc. Mệt bở hơi tai. Bộ đội ta tựa lưng vào bìa rừng đứng nghỉ. Và thế là hai bên có dịp chuyện trò với nhau. “Ôm súng ngồi một chỗ, buồn không?”. Bộ đội ta hỏi. “Tất nhiên rồi! Cõng hàng nặng đường xa, có mệt không?”. Quân ngụy trên đồi hỏi. “Đương nhiên là mệt!”. “Mai mốt hết chiến tranh, chúng ta sẽ là anh em một nhà. Và chúng ta kể lại chuyện hôm nay chắc vui nổ trời!”. Hồi đó, quân ngụy ở các điểm chốt nơi vùng giáp ranh thường xuyên thay đổi đơn vị đóng chốt. Bọn chỉ huy lo sợ những cuộc trò chuyện ấy sẽ làm lung lay tư tưởng cũng như tinh thần “anh em binh sĩ” nên liên tục thay quân đổi tướng. Và nhờ vậy, bộ đội ta có dịp làm quen với nhiều đơn vị quân ngụy. Anh Hai tôi bảo: “Quãng thời gian ngay sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực thi hành, ta và địch ở vùng giáp ranh “chung sống hòa bình”. Không bên nào có thái độ gây hấn hay hăm he dùng vũ lực đe dọa lẫn nhau”.
Sau Hiệp định Paris - 1973 là thời cơ ngàn năm có một đối với cách mạng miền Nam. Chiến trường tạm ngưng tiếng súng. Ở vùng rừng núi miền tây đất Quảng, bộ đội công binh ngày đêm mở đường tỏa đi khắp các ngả dưới những tán rừng đại ngàn. Từ Phước Sơn những con đường bí mật mở qua ngõ Trà Đốc (Bắc Trà My), rẽ xuống vùng Sơn - Cẩm - Hà (Tiên Phước) rồi vòng ra Tân An (Hiệp Đức) để ráp nối với những con đường sẵn có dẫn về đồng bằng duyên hải Quảng Nam. Các đoàn xe vận tải Gat 63, Zin 130 từ miền Bắc theo đường Trường Sơn lầm bụi đỏ chạy vào miền tây đất Quảng chở vũ khí đạn dược, pháo tầm xa 130 ly, pháo cao xạ 37 ly, 55 ly, cùng lương thực thực phẩm, quân trang quân dụng… cung cấp cho chiến trường khu 5. Khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đơn phương phá vỡ Hiệp định Paris - 1973, công khai xua quân càn quét, lấn chiếm ra vùng giải phóng, cũng là lúc ta đã chuẩn bị khá đầy đủ nhân lực vật lực để giành thế chủ động tiến công trên các chiến trường. Năm 1974, lần đầu tiên Quân giải phóng khu 5 tiến công cứ điểm Thượng Đức với binh chủng hợp thành, bao vây đánh lấn cả ngày lẫn đêm. Cuộc đọ sức giữa ta và địch ở Thượng Đức sau một thời gian dài ở thế giằng co, cuối cùng ta cũng đã san bằng cứ điểm này. “Cánh cửa thép” bảo vệ thành phố Đà Nẵng ở mạn tây bắc của quân ngụy đã bị đập tan.
Thế liên hoàn của vùng giải phóng ở miền tây đất Quảng được tạo ra và rộng mở về hướng đồng bằng.
Bước sang năm 1975, cùng với Buôn Ma Thuột, Tiên Phước được chọn làm nơi nổ súng lệnh mở đầu cuộc tổng tiến công và giải phóng miền Nam vào ngày 10.3.1975 lịch sử. Chỉ trong một buổi sáng, ta đã làm chủ được quận lỵ Hậu Đức và quận lỵ Tiên Phước. Và hai tuần sau, vào trưa ngày 24.3.1975, Quân giải phóng khu 5 đã tiến về thị xã Tam Kỳ, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Nam, viết nên trang sử mới của thời đại Hồ Chí Minh. Có mặt trong đoàn quân giải phóng vào thời điểm ấy, với anh Hai tôi, đấy là những phút giây hạnh phúc nhất của người chiến sĩ đội mũ tai bèo.
NGUYỄN TAM MỸ