Cảm nhận múa cổ điển Ấn Độ
Nếu được lãng du trên xứ sở sông Hằng thì việc khám phá thế giới nghệ thuật qua những điệu múa cổ điển quả thực không hiếm. Nó như những dòng chảy bất tận tưới tắm xanh tươi theo từng điệu múa qua phim ảnh, ca nhạc, hoặc các lễ hội dân gian ở khắp mọi nơi. Các loại hình nghệ thuật Ấn Độ vừa giàu có, lại vừa huyền nhiệm như các vị thần trong lịch sử thăm thẳm năm ngàn năm qua, mà dường như đỉnh cao của mọi đỉnh cao ấy là nghệ thuật múa cổ điển. Ngày nay, các thể loại nghệ thuật múa cổ điển ấy, đã trở thành những sứ giả để Ấn Độ đưa bàn tay thân thiện của mình bắt tay với cả nhân loại. Tôi đã có lần thưởng thức các nghệ sĩ Odissi Ấn Độ diễn dịch bằng một thứ ngôn ngữ múa đầy bí nhiệm ở TP.Đà Nẵng, từ đó tôi hiểu ra, vì sao thế giới nghệ thuật ấy được tụng xưng như truyền thuyết về một tình yêu không hồi kết thúc.
Một tiết mục múa cổ điển do các nghệ sĩ Ấn Độ biểu diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội vào tháng 3.2014. |
Bạn có thể ngồi suốt buổi mê say thưởng thức chỉ một điệu Kathak mà không hề chán. Bởi thưởng thức múa cổ điển Án Độ, không chỉ bị cuốn hút theo cái nhãn quan đắm đuối mê ly của sự hoan lạc, mà bạn còn nghe ra thơ, đọc ra nhạc từ ngôn ngữ múa huyền ảo của nó. Cũng có thể bạn sẽ ngẩn ngơ như bị hút hồn bởi những tiếng gọi câm của hình thể, gợi mở ra những sử thi, những truyền thuyết, những câu chuyện tình yêu qua các điệu thức phức hợp uyển chuyển đến huyền hoặc. Và có thể còn xa hơn nữa, đấy là cả một thế giới mênh mang vũ điêu cổ điển Bharatanatyam, Kathakali, hay là Manipuri, Kuchipudi…
Những người bạn Ấn Độ nói với tôi rằng, cổ nhất trong các điệu múa cổ mà người Ấn Độ ngợi ca, đó là điệu múa Odissi, nó xuất hiện từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên. Vũ điệu này có nguồn gốc từ bang Orissa ở miền đông Ấn Độ, được lưu dấu trong các công trình kiến trúc cổ ở các đền đài Hindu Brahmeswara và đền Konark ở Puri. Trữ tình, uyển chuyển, thanh thoát theo từng bước nhảy, gợi cảm trong từng ánh mắt, nhịp điệu biểu cảm theo từng đường cong cơ thể. Múa Odissi là biết làm cho cái đẹp đánh thức mọi niềm cảm xúc trỗi dậy. Có phải vì thế mà Tagore đã từng ngợi ca: “Mặt đất, dưới gót chân em, vang lên như một thụ cầm…”. Chỉ có điều, những gót chân nhẹ nhàng huyền thoại ấy, dặt dìu theo những thanh âm thụ cầm Hindustani, Carnatic cùng với bao loại nhạc cụ khác đã có lần hội ngộ cùng tôi, không phải trên đất nước Ấn Độ xa xôi, mà ngay trên quê nhà của mình. Chủ đề múa đêm ấy, những nghệ sĩ Odissi Ấn Độ gọi tên là “Khám phá những nhịp điệu Tagore”, đã khảm khắc vào tôi tình yêu miên man như được “nối vòng tay lớn”. Đến nỗi có lần du lãm, lang thang giữa mênh mông phố xá New Dehli, tôi có cảm giác như đi đâu cũng có bàn tay mầu nhiệm Odissi với “Nhịp điệu Tagore” dẫn đường!
Rabindranath Tagore là một thi sĩ, một triết gia - người con vĩ đại của đất nước Ấn Độ, là nhà thơ Châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel văn học (1913). Người ta biết đến Tagore trong triết học, thơ văn, hội họa, âm nhạc, viết kịch… nhưng có lẽ, chính người Ấn Độ hiểu về thiên tài của mình rõ hơn bất cứ một dân tộc nào. Đoàn nghệ thuật truyền thống Odissi Ấn Độ, bằng nghệ thuật múa cổ điển của quê hương mình đã diễn dịch ra những ý nghĩa ấy. Cũng có thể, chính Tagore và triết lý khám phá ra những nhịp điệu như là linh hồn dẫn dắt cho mọi tìm kiếm sáng tạo nghệ thuật trong loại hình múa cổ điển này. Không sôi nổi và rực rỡ bởi âm thanh ánh sáng, không hình thức phục trang lấp lánh hay gợi cảm quyến rũ như múa hiện đại, mà là sâu lắng, nhẹ nhàng theo nhịp phách phức hợp mang âm hưởng của sự chuyển động trí tưởng tượng, gợi cho người xem cách giải mã những mật ngữ nên thơ mà nhịp điệu múa tạo ra.
Nhưng đâu chỉ có “Khám phá những nhịp điệu Tagore”, đoàn nghệ thuật Odissi Ấn Độ còn kể cho tôi nghe một âm hưởng khác, đó là trình diễn tiết mục “Thakurbarir Shajposhk”. Một tiết mục múa minh họa giới thiệu về trang phục truyền thống của gia đình Rabindranath Tagore, tái hiện hình ảnh cảnh gia đình Tagore và bạn bè với trang phục tự thiết kế. Dưới ánh sáng của sắc màu và âm thanh, hình ảnh các vũ công dẫn dắt con người ta ngược dòng thời gian trở về thế kỷ XIX qua cách phục trang và trình diễn đầy biểu cảm.
Tôi nhớ Nhà hát tuồng Nguyễn Hiễn Dĩnh đêm ấy tràn ngập tiếng vỗ tay khi những nhịp điệu Tagore mở ra một thế giới như là sự chuyển động từ khắp vũ trụ, đánh thức mọi cảm xúc người xem qua thanh âm lời thơ và ca khúc hòa quyện ngân nga làm say đắm lòng người. Nhịp điệu hòa theo âm nhạc và vũ khúc, mỗi phân đoạn như là sự bóc tách từng lớp, từng mảng cấu trúc nhịp nhàng. Cứ lắng xuống từng phần như thế, từ phía khán giả, tiếng vỗ tay trỗi dậy rồi lại trầm xuống như dìu dặt thăng hoa theo từng làn sóng cảm xúc khi thì òa vỡ lúc lại mênh mang sâu lắng.
Thưởng thức múa cổ điển Ấn Độ, từ bấy lâu, tôi như đứa trẻ ham chơi lạc đường trong cánh rừng hoa thăm thẳm. Hình như cả đất nước mênh mông Ấn Độ, hầu hết con gái đều biết múa. Có vẻ gì đấy tương tự như các dân tộc vùng cao các miền Tây Bắc, Đông Bắc nước ta. Con gái khắp các thôn bản, nơi nào cũng múa, chả cần trường lớp nghệ thuật cao siêu nào hết, mà có trường lớp thì đấy chỉ là bước nối tiếp về sau. Ở xứ sở Ấn Độ, bắc Ấn, trung Ấn, nam Ấn… múa và múa hình như là mật ngôn truyền đời trong vô thức cộng đồng dân tộc. Thế mới hiểu sức sống của nghệ thuật, của cái đẹp, mà lại là nghệ thuật múa cổ điển từ quê hương Tagore, như lời thi sĩ đã từng gieo rắc vào trái tim nhân loại: “Âm nhạc và các vũ điệu là ngôn ngữ chung của loài người.
NGUYỄN NHÃ TIÊN