Chuyện về chim chơ-rao
Cây kơ-nia, rừng xà-nu, hoa pơ-lang… đã từ một loài thảo mộc bình thường bỗng trở nên nổi tiếng, được coi như thứ đặc hữu, biểu trưng cho núi rừng Tây Nguyên qua các tác phẩm văn học - nghệ thuật. Chim chơ-rao cũng vậy, từ một loài chim bình thường bỗng trở nên nổi tiếng qua trường ca “Bài ca chim chơ-rao” của nhà thơ Thu Bồn.
Trường ca ấy được trích giảng trong trường phổ thông, nhiều thế hệ học sinh và độc giả cả nước đều biết. Ở đây chỉ xin kể đôi điều về chim chơ-rao và những câu chuyện xung quanh bản trường ca ấy.
Gốc tích chơ -rao
Từ điển Ba-na - Việt ghi chơ-rao là chim sáo. Tuy nhiên, theo những người biết về chim muông thì cho đó là chim bồ chao. (Mà nghe ra âm đọc “chơ-rao” cũng gần với “bồ chao” hơn là “sáo”!). Từ điển Việt - Ba na ghi bồ chao là “bơ-lang”. Từ hai định nghĩa trên, so sánh cụ thể giữa hai loài chim thì thấy: Chim sáo có bộ lông chủ yếu là đen nâu, chân cao, thân hình thon gọn, ít hót liên tục; Chim chơ-rao to con hơn một tí vì có bộ lông hơi xù, màu xam xám với những chấm lốm đốm đen và trắng xám, có tập quán thi nhau la hét liên hồi khi tụ đàn đông đảo. Ở vùng Nam Trung bộ có câu thành ngữ “Ồn như đám bồ chao!” để nói về một nhóm người nào đó đang kháo chuyện ồn ào náo nhiệt. Bồ chao hay quần tụ ở nơi có ao hồ, đầm lầy hay sông suối giữa rừng già. Người đi rừng nếu cần tìm nguồn nước cứ lắng nghe tiếng chim bồ chao ở đâu thì lần đến đó, thế nào cũng gặp nước. (Được cái, đàn bồ chao luôn thi nhau kêu la inh ỏi nên cũng dễ nghe ngóng được “tín hiệu” có nước ấy!). Người viết bài này vào những năm 1980 theo bạn đi đãi vàng sa khoáng khắp rừng Tây Nguyên cũng đã nhiều lần ứng dụng kinh nghiệm này mà tìm sông suối để đào đãi.
Ấy - một loài chim “vô danh” như vậy, đùng một cái, vào khoảng giữa những năm 1960 (cụ thể là 1964 – 1965) bỗng gây sự chú ý đặc biệt của độc giả, thính giả cả nước, khi Tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam đăng tải toàn văn trường ca, và sau đó là Đài Tiếng nói Việt Nam cho diễn ngâm liên tục; rồi được in thành sách “bướm” (in trên một tờ giấy khổ lớn có dàn trang theo thứ tự và xếp gọn lại) để dễ phổ biến, dễ mang theo trong ba lô các chiến sĩ Giải phóng quân. Thế rồi bản trường ca liền được dịch sang tiếng Trung Quốc; rồi được giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; rồi được giải thưởng Bông Sen của Hội Nhà văn Á – Phi… Và thế là tác giả của nó – nhà thơ Thu Bồn - liền được ví là “cánh chim chơ-rao” trong dòng văn học sáng tác về đề tài Tây Nguyên!...
Chuyện buồn ghi lại
Bản trường ca được ra đời ngay trên đất Tây Nguyên, tại làng Đêpa Pơlếch thuộc huyện Chư Prông tỉnh Gia Lai ngày nay. Khoảng năm 1961-1962, Thu Bồn được Liên khu V điều động lên hoạt động ở khu vực Plây me. Tại đây, nơi làng Đêpa Pơlếch của bà con dân tộc Ja-rai giữa đại ngàn ngút ngát, ngày ngày Thu Bồn chứng kiến sự quần tụ kết đoàn của những đàn chim chơ-rao, tiếng hót inh ỏi của chúng hòa quyện cùng tiếng đàn đing-nam của già làng Siu Ken cũng thường ngày réo rắt khiến cảm hứng thi ca khơi gợi trong lòng chàng trai trẻ Hà Đức Trọng (tên thật của Thu Bồn). Cảm khái trước hình tượng kết đoàn đông đảo của loài chim rừng, trước cảnh sắc hùng vĩ đại ngàn Trường Sơn và trước tinh thần kiên cường của người Tây Nguyên, Hà Đức Trọng bèn bắt tay viết bài thơ dài với ngòi bút mực và tập vở học trò rồi ký bút danh Thu Bồn – tên dòng sông quê hương Quảng Nam thân thương của mình. Lúc bấy giờ là thời kỳ vô cùng thiếu thốn nơi vùng kháng chiến, đến dầu đèn cũng thiếu, nên đêm đêm chàng thi sĩ trẻ phải nhờ cô gái Ja-rai tên Hơ Tó cầm đuốc lồ ô thức chong cho chàng viết.
Trường ca viết xong năm 1963 (với một bản thảo độc nhất), nhân chuyến được cử đến biên giới Việt - Lào trên đất Kon Tum, Thu Bồn gửi cho nhà thơ Thanh Hải (tác giả bài thơ “Mồ anh hoa nở” nổi tiếng) mang ra miền Bắc. Từ đó, do cách trở và khó khăn của thời chiến tranh, Thu Bồn lo âu thắc thỏm ngóng tin về “số phận” của đứa con tinh thần, nhưng tác phẩm cứ… biệt vô âm tín! Có lần Thu Bồn viết: “Thế là bản trường ca của tôi mất hút giữa biên giới Việt – Lào…”.
Mãi đến năm 1965, tại một binh trạm giữa rừng, Thu Bồn gặp đơn vị Dân chính từ Bắc vào Nam, trong đó có nhà thơ Lê Anh Xuân (tác giả bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” nổi tiếng sau đó), nhạc sĩ Đinh Phong… và một người cháu họ của Thu Bồn. Người cháu họ giới thiệu Thu Bồn, liền được các văn nghệ sĩ trong đoàn móc từ dưới đáy ba lô ra tờ báo Văn nghệ có in bản trường ca “Bài ca chim chơ-rao”, tặng cho tác giả. Thu Bồn, vui không thể tả, liền cắt rừng lao về làng Đêpa Pơlêch. Đến làng gặp lúc làng có lệnh phải sơ tán để tránh đợt bom B52 sắp tới. Tuy nhiên, khi nghe Thu Bồn nói “Cái tờ giấy có mồm nói cho người cả nước cùng nghe bài ca của làng mình đây!” thì dân làng lục tục kéo về nhà rông để gặp gỡ. Thu Bồn trải tờ báo Văn nghệ ra cho mọi người cùng xem bài thơ có vẽ minh họa một ché rượu cần và hình chim lạc. Ông già Siu Ken thích quá, bảo xé cái “tờ giấy biết nói” này ra cho mỗi người một mảnh, khiến ai cũng cười ồ! Đang cơn vui mừng náo nức thì một loạt bom trúng ngay sân làng! Thu Bồn viết: “Thế là trong phút chốc cả nhà rông tan biến. Tờ báo Văn nghệ có mang theo Bài ca chim chơ-rao của tôi cùng với ba lô, đồ đạc cũng tan biến. Và đau khổ hơn hết là… máu! Máu của lũ làng đã đổ! Máu của những con chim chơ-rao đã đổ!”...
Có một con chim chơ-rao nhỏ - là nàng Hơ Tó - nãy giờ lặng lẽ ngắm nhìn, lắng nghe, lòng thầm ngưỡng phục cái “anh cán bộ trẻ” cách đây mấy năm mình đã mỏi tay cầm đuốc soi cho để viết viết xóa xóa cái gì đó, hóa ra lại tài giỏi hung! Và máu con chim nhỏ này cũng đã đổ xuống trong cuộc “vui” oan nghiệt ấy!
Chuyện “vô kỷ luật” vì bỏ đơn vị chạy về làng và tụ họp dân làng khi có lệnh sơ tán của Thu Bồn, lạ thay, lại được thủ trưởng Đặng Vũ Hiệp (sau này là Thượng tướng) tha bổng để cùng với Kơpa Kơlơng kịp chạy theo đơn vị tiến về trận địa Chư Prông đang giục giã. Trường ca “Trên đỉnh Chư Prông” (cùng với truyện ngắn “Người dũng sĩ dưới chân núi Chư Prông” của Nguyên Ngọc và bài thơ “Ra đi từ tiếng hát” dài 68 câu của Hồng Chinh Hiền) sau đó là Thu Bồn viết về vị Dũng sĩ Anh hùng Kơpa Kơlơng, cũng ngay tại địa danh Plây me - Chư Prông lịch sử này.
TẠ VĂN SỸ