Vùng đông, yêu thương

HỒ DUY LỆ 14/10/2020 05:35

Trở lại vùng đông, huyện Thăng Bình - một vùng đất toàn cát áp sát ven biển với rừng phi lao xanh rì rào, sóng và gió, và nắng. Tôi yêu và trân trọng màu xanh từng bị quân thù đốt trụi, ngay sau ngày lập lại hòa bình năm 1975, được người Bình Dương, người vùng đông lợp đi, lợp lại trên nền đất khô khốc, nhức mắt.

Cầu Cửa Đại. Ảnh: LÊ TRỌNG KHANG
Cầu Cửa Đại. Ảnh: LÊ TRỌNG KHANG

Tôi nói trở lại vì đã từng sống với bà con, với du kích, cán bộ vùng đông, nhất là Bình Dương, Bình Giang, Bình Đào, trong những ngày bom đạn đổ xuống đất này vô cùng khốc liệt. Về đây là nhớ và hỏi những người tôi từng gặp: ông Đụng ở thôn Sáu, có con trai tên là Nhứt làm nghề đánh cá. Anh Tiếp, anh Thảo từng làm cán bộ xã những năm ác liệt 1968, 1969. Bà Lai, bà Dưỡng, bà Rân, ông Ty, mẹ Dổi, ông Siêng, bà Nhâm, bà Đoan… Họ là chủ của những gia đình bám trụ. Mỗi lần về công tác, được xã bố trí ở trong nhà, gặp sắn ăn sắn, gặp khoai ăn khoai, nghe và biết tên bà con trong những đêm họp dân. Và, đâu rồi, chị Đỗ, chị Nga… những người con kiên trung đối mặt lưỡi lê và máy chém!

Trong “Nhật ký chiến tranh” dài gần một ngàn trang của mình, Chu Cẩm Phong đã ghi khá nhiều về hai lần anh đi qua và ở lại trên đất Bình Dương. Trong một trang bất kỳ, Chu Cẩm Phong ghi: “Bà Chiến có chồng bị HU1A bắn chết năm 1964 còn lại các con: Chiến, Sỹ, Nông, Nghiệp”. Trên đất cát Bình Dương, nếu không làm nông thì không biết làm gì để sống. Đất cát bạc màu, phải đào ao mới có nước tưới cho cây, làm ra được củ khoai, hạt lúa phải thức khuya, dậy sớm, phải đổ nhiều mồ hôi. Để củng cố thêm nghị lực của mình, một bà mẹ chiến sĩ đã nêu quyết tâm bằng cách đặt tên mỗi đứa con được sinh ra trên đời, dưới đạn bom ác liệt: Chiến, Sỹ, Nông, Nghiệp! Đến thôn Tư - còn có tên Bàu Bính, dừng chân chỗ ngã ba đường, tôi hỏi về nhà bà Chiến. Được người chỉ đường. Tôi vào nhà thăm mẹ, để kiểm chứng có phải là bà Chiến có tên trong “Nhật ký chiến tranh” của Chu Cẩm Phong hay một bà Chiến nào đó trùng tên.

Tôi niềm nở: Thưa mẹ. Năm nay mẹ bao nhiêu tuổi?

- Tuổi Thân - Tám mốt.

- Chiến là tên mẹ hay tên ông nhà?   

- Tên con. Tên ổng là Nguyễn Chấp, còn tôi là Nguyễn Thị Thắng.

- Còn Chiến là…?

- Là con trai đầu. Hắn đau, nằm ở phía sau.

Thì ra, từ cái tên Thắng của mẹ mới có cái tên Chiến của người con trai đầu lòng. Mẹ Thắng gieo niềm tin vào người con thân yêu với khát vọng sẽ chiến thắng bất cứ khó khăn nào! Khi giặc chưa đến, với đất cát thiếu nước, bạc màu thì các mẹ phải quý và giữ từng gáo nước nhỉ, chiến đấu với khô hạn, với lụt bão bất thường, với gió cát bụi mù... Khi quân thù đến, các mẹ phải chiến thắng giặc Mỹ xâm lược đồng thời chiến đấu với cát và khô hạn, với đói nghèo để có cái ăn cho gia đình mình và cho du kích bám đất, đánh giặc giữ làng!

Tôi hỏi thêm, để chắc có phải đây là nhân vật có tên trong Nhật ký Chu Cẩm Phong.

- Bây giờ mẹ ở với ai?

- Ở với con Nghiệp. Đây là nhà do con Nghiệp làm, vừa làm xong nhà còn thiếu ba triệu đồng, hắn phải ra Đà Nẵng làm ăn kiếm tiền về trả nợ…

Trong chuyến đi, chúng tôi mời chị Cúc, nguyên là Xã đội phó, sau mấy trận đánh tả xung hữu đột làm cho quân thù khiếp sợ, Đảng ủy xã thăng chức lên làm Xã đội trưởng xã Bình Dương.

Về thăm lại thôn Một của chị Cúc. Thử hỏi mẹ Chiến về cô xã đội ngày nào. Mẹ biết ai đây không?

Mẹ đưa đôi mắt nhăn nheo nhìn chị Cúc. Tất nhiên là không tài nào nhìn ra, dù cho trước đây mẹ có quen thân với chị. Bởi thời ấy, chị Cúc - Xã đội trưởng ở tuổi hai mươi, tóc dài tới lưng, đẹp gái, dễ thương nhất thôn Một. Bây giờ chị là một người mẹ của năm con, lam lũ, lạ hoắc lạ huơ. Mẹ Chiến nắm bàn tay chị Cúc, nheo mắt nhìn sững chị một lúc rồi nói như người có lỗi:

- Ai mà nhìn không ra hè?

Đưa hai tay ôm bàn tay nhăn nám của mẹ, chị Cúc hỏi mẹ:

- Mẹ có biết Cúc xã đội không?

- Có phải Sáu Cúc ở thôn Một?

Chị Cúc ôm chầm lấy mẹ, mẹ vòng tay ôm lưng chị, nghẹn ngào:

- Sao mi lạ hung rứa, làm răng mẹ nhận ra. Chớ con đi đâu hồi nớ tới chừ?

Hai người mẹ đều rơi những giọt nước mắt bùi ngùi, xúc động. Dường như cả hai đều thấy mình có lỗi - lỗi quên đi những ngày mà theo họ là đáng nhớ nhất trong cuộc đời, những ngày họ đã góp cả mồ hôi và máu để tạo nên những trang sử hào hùng gian nan và tuyệt đẹp!

Ngày 1.9.1969, gặp chị Cúc, Chu Cẩm Phong ghi: “Cúc xã đội phó, cô ta vừa bị thương, một mảnh cối xuyên dưới xương quai xanh lọt nằm trong vai, cánh tay gần như bị liệt. Cúc mảnh dẻ và dịu hiền. Bọn Mỹ vừa tàn sát gia đình Cúc. Người chị dâu và hai đứa nhỏ ở dưới hầm. Chúng giật mìn chết. Cha và mẹ Cúc vừa ở dưới hầm lên bị chúng bắn luôn, chết gục ở miệng hầm, giờ chỉ còn hai em sống với nhau…”.

Chúng tôi may mắn có dịp gặp hai người mẹ bất ngờ và hết sức sinh động trên đường chị cựu Xã đội trưởng Trần Thị Cúc về thăm lại thôn Một. Đây là nơi gia đình chị từng sống êm ấm, bình an, rồi giặc Mỹ đến gây nên một nỗi đau lớn của gia đình. Quyết trả thù nhà, đền nợ nước, chị chỉ huy trung đội du kích phục đánh tiêu diệt trung đội lính Mỹ. Mặt trời lên quá ngọn dương, nắng nóng và ai cũng thấm mệt, chúng tôi ra biển. Từ trên bãi cát ì ầm tiếng sóng biển, rảo bước đi, tôi dừng lại nhìn một người đàn bà bưng cái rổ sảo sưa đi ra phía rừng dương liễu. Chị ta đi quơ lá dương khô về nấu bếp.

- Xin hỏi, chị là người ở đây? 

- Ở đây. Người đàn bà nghiêng cái nón lá đã cũ và sờn, nhìn tôi, giọng nhỏ nhẹ.

- Từ khi nào?

- Từ hồi chiến tranh. Ngừng một lát, chị nói tiếp: Đến 1970 thì chạy.

- Tại sao chạy?

- Trắng hết, không còn chỗ mà rúc, không còn cái mà ăn. Chạy lên khu dồn, đến năm 1975, giải phóng thì lục tục về quê…

Tôi nghĩ, ngày ấy chị là dân bám trụ, vẫn hỏi:

- Trước chị làm gì không?

- Du kích thôn.

Trời! Sao mà… tôi thốt lên trong lồng ngực. Tôi nhìn sang chị Cúc - người cựu xã đội tôi mời cùng đi về thăm quê chị, muốn nói với chị Cúc, nếu quả chị ta là du kích thôn thì nguyên là lính của chị Cúc. Nhìn gương mặt hiền như cát và hơi tiều tụy, tôi mạnh dạn hỏi:

- Chị có chồng không?

- Có.

- Anh ấy làm gì?

- Anh cũng từng làm du kích thôn, anh tên là Lê Văn Điền. Sau khi đi dân công về, năm 1965, ảnh tham gia du kích, chừ làm nông.

- Vậy, chị biết chị Cúc không? Chị Cúc lúc bấy giờ là Xã đội trưởng đó?

- Biết. Sáu Cúc.

Một ý nghĩ chợt hiện ra trong tôi: Chị xã đội trưởng ngày ấy quá nổi tiếng!

- Vậy thì ai đây? Tôi chỉ chị Cúc.

- Ôi! chị Cúc! Chị sà vào người chị Cúc. Lần này là cuộc gặp lại của hai người đàn bà cùng cỡ tuổi, cùng xuất thân là du kích.

Nhìn họ ôm nhau hồi lâu trên trảng cát trắng, lòng tôi như quặn lại.

Thời đánh Mỹ, ở Bình Dương, mỗi thôn có một tiểu đội du kích. Du kích hy sinh nhiều. Có thể trong những trận đánh phối hợp, họ có gặp nhau, giờ, sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, vật lộn với gió cát, phơi nắng cháy, đội mưa mù, làm ra cái ăn để sống, chưa một lần được dự “gặp mặt”, dễ gì họ nhận ra nhau!

Chưa muốn chia tay người đàn bà khắc khổ Lương Thị Ba, tôi hỏi thêm vài câu nữa:

- Chị nói là du kích thôn, sao đến năm 1970 lại chạy lên khu dồn?

- Thì tôi nói rồi, đói quá, không còn chỗ rúc. Trắng huơ. Trực thăng Mỹ bay trên trời nhìn xuống thấy mồn một,… nói xin lỗi anh, thấy rõ từng cục phân khô… Anh em du kích muốn nấu cơm phải đào cái hục, lấy cái nón cời che gió… Ban đêm, muốn nấu được cơm thì phải che ánh lửa… Thấy một ánh lửa lóe lên là chúng nện pháo tới liền! Tôi không chịu nổi, để cây súng lại cho anh em du kích, đi lên khu dồn. Ai rời đơn vị lên khu dồn thì bị đồng đội ghép tội chiêu hồi! Du kích mà bỏ súng lên vùng địch là đi chiêu hồi. Đi chiêu hồi mà đi tay không, nói là du kích bên nớ họ không tin, không nhận là chiêu hồi, bắt ngồi tù mấy tháng rồi thả, vào khu dồn ở, không dám về quê cho đến ngày giải phóng.

Lại nói mình về những cây cầu nối với vùng đông. Trong đó, có ước mơ từ bao đời của người vùng đông đã thành hiện thực vào ngày 17.3.2016, sừng sững cây cầu qua sông Thu Bồn, mang tên Cửa Đại - đổi bằng hàng ngàn hecta đất, chạy thẳng từ Hội An vào Cảng Kỳ Hà - Khu kinh tế mở Chu Lai.

Có cầu Cửa Đại vĩnh cữu, có con đường rộng mở thênh thang, không còn hy vọng mỏi mòn, mà đã, đang mở ra một khả năng phát triển vùng đông. Vùng đông nối tiếp với Khu kinh tế mở Chu Lai sẽ là động lực phát triển không chỉ vùng đông mà có ảnh hưởng tích cực cho cả tỉnh Quảng Nam. Hiện có nhiều nhà đầu tư đang đến với vùng đông. Khu phức hợp du lịch, nghỉ dưỡng Vinpearl - Nam Hội An, không chỉ thu hút hàng ngàn lao động có thu nhập khá, còn là một điểm hẹn thu hút khách bốn phương về với đất cát vùng đông. Các dự án - mới là dự án thương mại, dịch vụ, vui chơi, nghỉ dưỡng, thể thao, trên đất Bình Hải và Bình Đào của Tập đoàn BRG đang triển khai dù chậm vì Covid-19 vẫn là một tin vui.

HỒ DUY LỆ