Người nằm lại ở bãi bồi
Trong căn nhà nhỏ ở kiệt 19/26 Hà Huy Tập, Đà Nẵng, bà Trần Thị Thìn - cựu nữ biệt động thành Đà Nẵng nhớ về những kỷ niệm không bao giờ quên. Miền ký ức ấy càng khắc khoải hơn bởi nỗ lực tìm kiếm đồng đội vẫn chưa thành.
Bên sông
Dù tuổi xấp xỉ 70 nhưng bà Thìn vẫn lưu giữ được những dấu vết của một thời xuân sắc với vóc dáng cao ráo, lúm đồng tiền thật sâu. “Kiểu này chắc hồi trẻ cô gieo thương nhớ cho nhiều anh Giải phóng quân lắm đây” - Tôi đùa, cứ nghĩ bà sẽ vui, vậy mà đôi mắt ấy lại nhìn xa xăm: “Vì thế mà cô day dứt lắm. Giá như có thể tìm được anh ấy…”.
Chiếc hộp ký ức như mở ra đưa người con gái Duy Trinh (Duy Xuyên) trở về một thời hoa lửa. Qua tuổi trăng tròn, Trần Thị Thìn đã hoạt động trong Ban 12 Đại đội biệt động Lê Độ. Năm 1969, cô được đưa lên núi học y tá nhưng mới đến thôn 3, Điện Thái (nay là Điện Thọ, Điện Bàn) thì được giữ lại phục vụ xưởng quân giới X74 của Mặt trận 4 Quảng Đà.
Nơi đóng quân của tổ quân giới là bãi bồi cây sặt, lát ken dày tại một khúc quẹo của sông Thu Bồn. Phía trước, bên kia sông là bạt ngàn đám bói xanh rì, nơi trú ẩn của đội phẫu dân y Mặt trận 4.
Những căn hầm chữ A dọc bờ sông được ngụy trang bằng những lùm cây lúp xúp trên bãi. Công sự nhỏ lộ thiên vừa đủ để ban ngày có thể ra làm việc, chủ yếu là buổi chiều. Buổi sáng máy bay địch thường do thám, oanh tạc hoặc kéo quân từ trong làng ra.
Tổ quân giới chưa đến chục người, chủ yếu tìm kiếm khai thác nguyên vật liệu ở vùng ven, tận dụng các đồ phế liệu để sản xuất vỏ lựu đạn, thủ pháo, ống bộc phá, đôi khi tìm nhặt bom, mìn lép của địch để chế tạo các loại mìn. Nữ y tá Trần Thị Thìn ngoài công việc chuyên môn còn giúp cho tổ những công đoạn đơn giản. Vì thế mà không ít lần chạm mặt với anh chiến sĩ quân giới Lê Văn Dấm. Ấn tượng về anh là gương mặt sáng, nụ cười hiền hậu, tiếng Bắc nhẹ nhàng. Anh không nói chuyện nhiều với cô. Có lẽ Thìn còn trẻ quá, mới từ nội thành vào, chỉ ở tạm rồi đi học. Cũng có thể đơn vị lúc ấy có 3 nữ quân giới, anh không muốn sự hiểu lầm nào. Nhưng những khi cô ra sông gội mái tóc đen mượt dài quá gối của tuổi 17, hong khô, bết lại đôi sam rồi cuộn lên mái đầu, anh đều lén nhìn hồi lâu rồi quay đi.
Còn cô, với kỷ luật của một chiến sĩ biệt động, không dám nghĩ đến gì khác ngoài nhiệm vụ. Có lần cô nghe từ hầm của anh tiếng cười nói rộn rã. Thì ra anh vừa nhận thư từ gia đình ngoài Bắc gửi vào. Người đồng đội trêu: “Mày viết thư về nói với mẹ là sẽ lấy vợ miền Nam, xem ý bà thế nào?”. Anh trả lời: “Mẹ mình không thích con trai lấy vợ trong này đâu, vì nghĩ con gái ở đây hung lắm, đánh giặc còn không sợ cơ mà”. Lại câu hỏi của bạn: “Mẹ mày ở đâu” - “Ở nhà máy dệt Nam Định”… Vừa nghe vừa mỉm cười, mẩu đối thoại này không hiểu sao in hằn trong ký ức của cô gái.
Mất mát
Nhưng sự bình yên giữa cuộc chiến chẳng bao giờ được dài lâu. Bà Thìn bùi ngùi nhớ lại... Một chiều cuối đông 1969, Thìn đang ở trong hầm thì nghe tiếng máy bay Mỹ vút qua, sau đó có người chạy về báo: “Anh Dấm bị trúng rốc két rồi. Cấp cứu mau!”. Cô xách túi quân y chạy theo đồng đội. Cách chừng 1km, họ thấy anh nằm sóng xoài, mảnh đạn trúng vào trán. Cô vội băng bó cho anh rồi cùng mọi người đưa về căn hầm chữ A gần đó. Hơi thở anh đứt đoạn, cứ nghĩ chắc anh bất tỉnh, vậy mà không ngờ khi muỗi cắn, anh đưa tay gãi. Ai nấy reo lên: “Anh sống rồi!”. Máu tụ xuống mắt sưng húp, không thấy được gì, nhưng nghe tiếng nói, anh biết có sự hiện diện của đồng đội và các cô gái. Có lẽ vì thế mà khi y tá Thìn muốn cắt dây thun chiếc quần đùi để anh dễ chịu thì người chiến sĩ giữ chặt. Có lẽ anh mắc cỡ mà không nói được.
Đêm đó trong căn hầm, mọi người bất lực và lo lắng. Dự định địch không phong tỏa, ngày hôm sau sẽ đưa anh lên bệnh xá 78 của Tỉnh đội trên Hòn Tàu (Duy Xuyên). Chiếc đèn pin là ánh sáng duy nhất trong hầm, đôi lúc phải tắt để tiết kiệm pin, anh ra hiệu hãy bật lên. Khi cô kiểm tra vết thương trên trán thì anh cầm tay cô áp lên trái tim mình. Môi mấp máy như muốn nói điều gì mà không thành lời. Lần tìm bàn tay của cô có chiếc nhẫn (mẹ cô cho phòng thân khi đi làm biệt động), anh nhẹ nhàng rút ra đeo vào ngón út của mình, rồi lại đeo vào ngón tay cô. Ngượng ngùng, cô rút nhẹ tay ra, bảo các bạn nữ khác vào chăm sóc anh. Anh biết và không hề nắm tay như đã làm với cô.
Cô đưa mắt cầu cứu chủ nhiệm quân y Bùi Hồng Khanh cũng đang ở đó. Ông bảo: “Chắc Dấm để ý đến em thầm kín bấy lâu, muốn nói gì đó, thôi cứ để cậu ấy nắm tay một chút”. Vậy là đêm hôm đó ở trong hầm, giữa những lúc tỉnh, người chiến sĩ quân giới lại áp bàn tay cô y tá vào ngực mình. Có lẽ anh muốn bày tỏ tấm chân tình hay muốn gửi gắm sau này lỡ anh hy sinh thì báo về cho gia đình biết. Giọt nước mắt trào dưới đôi mắt sưng húp của anh. Cô gái lặng lẽ chăm sóc, chườm nóng khi anh sốt cao. Có lúc anh gồng người, mím môi kìm nén cơn đau.
Cứ thế cả đêm dài trôi qua rồi đến sáng hôm sau. Nữ y tá Thìn cảm thấy bàn tay anh đang nắm tay mình từ từ lạnh dần, rồi thả ra bất động. Trái tim dưới đôi bàn tay cũng ngừng đập. Gương mặt anh không còn giọt nước mắt mà giãn ra thanh thản, đôi môi như đang cười. Cả căn hầm òa tiếng khóc. Mọi người tẩm liệm, quấn anh vào những tấm vải trắng, chôn phía sau bãi lát. Không có gì để làm dấu ngoài một vài nhánh cây, cô nữ y tá ước lượng khoảng cách từ nơi chôn cất đến khúc quẹo bờ sông. Xa hơn nữa là chiếc xà lan của Mỹ neo ở phía tây. Vài tháng sau, cô gái cũng đi học rồi trở lại đội biệt động thành Đà Nẵng cho đến ngày giải phóng.
Hành trình tìm kiếm liệt sĩ
Cuộc sống hậu chiến bộn bề, khó khăn đã hút hết sức lực của người nữ biệt động năm xưa. Hưởng chế độ mất sức, phụ cấp không bao nhiêu, cùng chồng (cũng từ trên núi xuống) nuôi hai con nhỏ, bà Thìn cứ quanh quẩn với cơm áo gạo tiền. Sau này những giấc mơ lạ cứ thôi thúc bà phải làm một việc gì đấy để giải tỏa niềm day dứt. Đó là năm 2006. Bà Thìn kể: “Thời gian đó, tôi cứ như thấy trước mắt mình, anh Dấm với vết thương trắng xóa trên đầu, đôi bàn tay áp lên trái tim như nhắn gửi điều gì. Vậy là tôi quyết tâm tìm gia đình anh ấy để thông báo về sự hy sinh của anh, dù muộn màng và dù chỉ biết một thông tin duy nhất: Mẹ làm ở nhà máy dệt Nam Định”.
Nghĩ là làm, bà Thìn đã viết thư cho Sở LĐ-TB&XH Nam Định với hy vọng mong manh bởi manh mối quá ít ỏi. Vậy mà, chỉ nửa tháng sau, bà nhận được thư của đơn vị này thông báo cha mẹ liệt sĩ Dấm ở Hà Nam. Quá mừng rỡ, bà tiếp tục viết thư cho tỉnh Hà Nam và nhận được thông tin rằng, liệt sĩ quê ở xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm. Chỉ thời gian ngắn sau, một người thân của gia đình liệt sĩ đã vào cung cấp cho bà tấm ảnh binh nhất Lê Văn Dấm. Đúng là anh, dù đã 35 năm, bà vẫn nhận ra gương mặt ấy. Bà còn biết thêm thông tin cha mẹ của anh Dấm đã mất, người chị hiện lấy chồng xa. Trước đó họ đã nhiều lần vào Quảng Nam tìm nhưng không biết hài cốt của anh ở đâu.
Với sự giúp đỡ của Ban liên lạc biệt động thành Đà Nẵng, bà Thìn cùng gia đình liệt sĩ Dấm vài lần vào xã Điện Thọ tìm kiếm. Không còn đâu ra dấu tích năm xưa, bởi hiện nay đã là bờ bãi bạt ngàn hoa màu của người dân địa phương. Vào nghĩa trang liệt sĩ xã, bà dò hỏi nhưng không ai biết được gì về người chiến sĩ quân giới. Có thể anh đã được đưa vào với ngôi mộ chưa biết tên. Dọc bờ sông này, có rất nhiều bộ đội đã ngã xuống, số rõ được tên chỉ rất nhỏ nhoi.
Bà Trần Thị Thìn ngậm ngùi: “Vẫn biết tìm được anh chỉ có phép màu vậy mà vẫn mong ai đó, đồng đội của tôi hay người dân vô tình hoặc có chủ đích đã từng đến bãi bồi cất bốc hài cốt anh ấy sẽ lên tiếng. Như vậy là tôi thỏa niềm day dứt bấy lâu”.