Ngôi mộ cổ ở làng Mông Nghệ
Việc phát hiện ra ngôi mộ cổ ở làng Mông Nghệ, xã Quế Phú (huyện Quế Sơn) vào năm 2015 có ý nghĩa rất lớn, đã bổ sung thêm nhiều thông tin quan trọng về Phạm Hữu Kính - một nhân vật lịch sử đặc biệt của Quảng Nam, và về người con gái của ông - Phạm Lam Anh, được cho là người “mở đầu cho dòng thơ văn đất Quảng”.
Nội dung trên tấm bia trước mộ Phạm Hữu Kính. |
Lịch sử làng
Làng Mông Nghệ nay là 4 thôn Mông Nghệ (Đông, Tây, Nam, Bắc) thuộc xã Quế Phú. Đây là một trong những làng cổ của Quảng Nam. Chưa có tài liệu nào cho biết cụ thể về sự kiện thành lập làng. Nhưng có lẽ làng ra đời vào đầu thế kỷ 15 với việc Phạm Nhữ Dực (… - 1409) được Hồ Quý Ly cử vào Nam nhận chức Chánh Đô án vũ sứ của phủ Thăng Hoa, chí ít là vào nửa sau thế kỷ 15, sau cuộc Nam chinh của Lê Thánh Tông vào năm 1471.
Tra các thư tịch cổ đều thấy có đề cập tên làng. Sách Ô châu cận lục viết năm 1555, cho biết Mông Nghệ là một trong 66 xã của huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong và là một trong 10 xã của huyện Điện Bàn nằm ở phía nam sông Thu Bồn.
Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776 lại cho biết Mông Nghệ là một trong 65 đơn vị hành chánh (xã, thôn, phường, ty, man) của huyện Diên Khánh thuộc phủ Điện Bàn. Đến năm Minh Mạng thứ 3 - 1824, Diên Khánh được đổi thành Diên Phước và trước đó từ thời Gia Long bản đồ của Diên Khánh cũng có thay đổi so với thời các chúa Nguyễn. Đây là chi tiết ít người để ý, kể cả các sử gia của Quốc sử quán triều Nguyễn và các nhà nghiên cứu sau này.
Sang thời nhà Nguyễn, theo Địa bạ triều Nguyễn được soạn năm 1814, Mông Nghệ thuộc tổng Phú Mỹ Trung, huyện Duy Xuyên, phủ Thăng Hoa. Năm 1836, huyện Quế Sơn được thành lập, Mông Nghệ lại thuộc tổng Phú Mỹ Trung, huyện Quế Sơn. Sau Cách mạng tháng Tám, Mông Nghệ thuộc xã Quế Xuân. Sau 1954, lại thuộc xã Phú Hương, quận Quế Sơn. Từ năm 1975 đến nay thuộc xã Quế Phú.
Ngôi mộ cổ ở Mông Nghệ
Tháng 4.2015, hai nhà nghiên cứu Lê Thọ Quốc và Hà Thị Phước đi điền dã ở làng Mông Nghệ đã phát hiện ra khu lăng mộ cổ ở xóm Đồng Hạo, xứ Cây Trai. Theo hai tác giả thì “Đường đi đến mộ rất khó khăn, cây cối mọc um tùm, rậm rạp bên ngoài, bao kín toàn khu lăng mộ nên ngôi mộ vẫn còn khá vẹn nguyên”, nhưng “Dân trong vùng hầu như rất ít biết về gốc gác của chủ nhân ngôi mộ, chỉ biết là của ngài Châu Phê, rất linh hiển nhưng không ai thờ tự nên cứ vào dịp thanh minh cúng xóm (25.12 âm lịch), bà con dân làng thường đến đây hương khói”.
Và “Đây là dạng lăng mộ phổ biến thời chúa Nguyễn, với cấu trúc gồm hai vòng thành bao bọc bên ngoài, trung tâm là mộ vôi hình trứng, có dựng bia bằng sa thạch phía trước… Thành ngoài hình chữ nhật (11,4m x 5,55m) và thành nội uốn cong theo dạng hình tròn với chiều dài 6,59m”.
Tấm bia trước mộ bằng sa thạch với kích thước 0,80m x 0,50m có nội dung (phiên âm):
Việt Cố – Khâm sai Quảng Nam Cai bạ tặng Tán trị công thần Đặc tiến trụ quốc Kim Tử Vinh Lộc đại phu chánh trị thượng khanh tham nghị, thụy Thanh Hiến, Phạm công chi mộ.
Tuế tại Mậu Dần lâm chung cát đán (Ngày tốt, tháng 6 năm Mậu Dần)
Nam: Quả Nghị - Tồn Thành - Lạc Thiện
Nữ: Lam Anh - Thị Nhân
Đồng lập thạch.
Tấm bia này có nội dung hoàn toàn giống với tấm bia Mông Nghệ xã Phạm tộc bi trong Quảng Nam xã chí do trường Viễn Đông bác cổ (EFEO) sưu tầm các tài liệu về làng xã Quảng Nam trước năm 1945 (mang ký hiệu 20427, hiện lưu trữ tại Viện Hán Nôm).
Những nội dung trong tấm bia mộ cổ ở Mông Nghệ (cũng như trong Quảng Nam xã chí) xác nhận đây là mộ của Phạm Hữu Kính - một danh thần thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1714 - 1765) vì nhiều chi tiết phù hợp với nội dung viết về ông trong Đại Nam liệt truyện như tên các con (lập bia), chức vụ khi còn sống và sau khi chết được truy tặng, thụy hiệu, tước vị được phong tặng… (Toàn bộ phát hiện của Lê Thọ Quốc và Hà Thị Phước được đăng trên Tạp chí Xưa&Nay số ngày 12.9.2016).
Đại Nam liệt truyện cho biết Phạm Hữu Kính quê ở huyện Diên Phước, nhưng không ghi ở làng xã nào cũng như năm sinh năm mất. Năm 1738 ông thi đỗ Hương tiến và làm quan dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, bắt đầu là chân giáo chức rồi Trấn thủ Nha Trang, sau đó được bổ làm Cai bạ Quảng Nam (1751). Ông “làm quan thanh liêm công bình, tự phụng đạm bạc, không nhận người đến yết kiến ở nhà riêng. Lại khéo xét đoán, phát hiện việc gian, tìm ra điều ẩn kín, được nha lại và nhân dân sợ phục…”.
Sách cũng cho biết ông là người không mê tín. Tiêu biểu là chuyện đề thơ trừ quỷ ở ngôi đền trên đèo Hải Vân; chuyện yếm trừ nghê đá hung dữ ở Hương Ly (Quế Sơn) hay chuyện phá miếu đốn cây trừ yêu quái ở Nha Trang...
Chuyện tề gia
Phạm Hữu Kính rất nghiêm khắc với con cái. Nghiêm khắc đến độ khắc nghiệt khiến nhiều người cho ông là “bất cận nhân tình”. Chuyện kể một lần ông đi công tác, con trai của ông ở nhà nhận tiền hối lộ. Khi biết chuyện ông xử con tội tử hình. Nha lại đều can ngăn nhưng ông cương quyết “pháp bất vị thân”. May là khi án dâng lên, được chúa tha. Đối với con gái cưng Phạm Lam Anh ông cũng nghiêm khắc không kém. Phạm Lam Anh được cha rước thầy Nguyễn Dưỡng Hạo về “dạy kèm”. Khi ông đi công tác, ở nhà “thầy” Dưỡng Hạo và “trò” Lam Anh “từ xướng họa thơ văn đi đến chỗ vụng trộm ái tình”. Biết chuyện ông giận lắm, đòi đem con dìm sông. Nhờ có người bạn hết sức khuyên giải ông mới thôi.
Phạm Hữu Kính có 4 người con là Quản Nghị, Tồn Thạnh, Lạc Thiện và Lam Anh. Lam Anh sau khi được cha tha tội đã lấy Nguyễn Dưỡng Hạo. Hai người là đồng tác giả của tập “Chiến cổ Đường thi” rất nổi tiếng, được Đại Nam liệt truyện hết lời khen ngợi. Đời sau vẫn xưng tụng Phạm Lam Anh là người mở đầu cho dòng văn học xứ Quảng, một tác giả đầy cá tính, “tiêu biểu cho tâm hồn và tính cách con người Quảng”.
Phạm Hữu Kính qua đời khi còn tại chức. Sau khi ông mất được triều đình truy thăng chức Tham nghị, được tặng phong Tán trị công thần, Đặc tiến trụ quốc, tên thụy Vĩnh Lộc đại phu, Chính trị thượng khanh tham nghị, tên thụy là Thanh Hiến.
Lâu nay, ít người nghĩ rằng mộ Phạm Hữu Kính nằm ở Mông Nghệ. Điều này dễ hiểu vì họ cứ dựa theo Đại Nam liệt truyện và nghĩ mộ ông nằm đâu đó - nếu còn - trên lãnh thổ của Điện Bàn (và một phần của Đà Nẵng) vốn là lãnh thổ của huyện Diên Phước thời trước.
Việc tìm ra ngôi mộ (cũng như những chỉ dấu từ Phủ biên tạp lục) cho phép ta khẳng định Phạm Hữu Kính (và dĩ nhiên cả con gái của ông, Phạm Lam Anh), có quê gốc ở làng Mông Nghệ, tổng Mông Lĩnh, huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn rồi tổng Phú Mỹ Trung, huyện Duy Xuyên (1802 - 1836), tổng Phú Mỹ Trung, huyện Quế Sơn (1836 - 1845) và thôn Mông Nghệ, xã Quế Phú, huyện Quế Sơn ngày nay. Và nếu không cẩn thận quá mức ta cũng có thể nghĩ họ là con cháu của tộc Phạm, một dòng tộc lừng lẫy của Quế Sơn (là tiền hiền của hai làng Đồng Tràm và Hương Quế), là hậu duệ của Phạm Nhữ Dực, người được Hồ Quý Ly cử vào làm Chánh Đô án vũ sứ phủ Thăng Hoa vào năm 1402.
LÊ THÍ