Trở lại mật khu Đỗ Xá
Căn cứ Nước Là - mật khu Đỗ Xá thuộc địa bàn huyện Nam Trà My. Một con đường dài 39km xuyên qua vùng núi non Trường Sơn hiểm trở này vừa thông tuyến để nối với huyện Tu Mơ Rông (Kon Tum) nhằm phát triển một vùng đất còn dày vết tích chiến tranh và nghèo khó...
Mật khu Đỗ Xá nay là khu vực trung tâm huyện Nam Trà My. Ảnh: T.Đ.T |
Mật khu Đỗ Xá hay căn cứ Đăk Bla (Nước Là) thành lập từ cuối những năm 1950 nhằm hiện thực hóa đường lối đấu tranh giải phóng miền Nam theo Nghị quyết 15 của Trung ương ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Trung. Mật khu Đỗ Xá gắn liền với những tên tuổi lừng lẫy một thời như Võ Toàn (Võ Chí Công), các tướng Trần Kiên, Nguyễn Đôn, Chu Huy Mân, Trương Chí Cương, Võ Thứ, Hoàng Minh Thắng, Mười Chấp... Mật khu Đỗ Xá nay là vùng Tăk Pỏ, Nước Là gần trung tâm hành chính huyện Nam Trà My…
Theo nhà báo Võ Thế Ái, Đỗ Xá là mật danh của căn cứ Nước Là, cũng có người cho đó là tên của một chiến sĩ hy sinh khi đi tìm vị trí xây dựng căn cứ.
Mật khu bất khả xâm phạm
Ông Nguyễn Văn Cao - nguyên cán bộ Văn phòng Khu ủy 5 lúc đó, nhớ lại: “Trong những năm chiến tranh đặc biệt, quân đội Sài Gòn thường xuyên đưa lực lượng càn quét đánh phá các khu căn cứ của cánh mạng. Mùa hè năm 1964, tướng Sài Gòn Nguyễn Khánh đưa 3 sư đoàn bộ binh cùng 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến đánh vào mật khu Đỗ Xá và vùng núi non hiểm trở giáp ranh giữa 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum để tiêu diệt các cơ quan đầu não cách mạng ở khu Trung Trung Bộ...”. Tài liệu lưu trữ cho thấy, lúc đó quân đội Sài Gòn đã đổ hàng trăm tấn bom và hàng nghìn quân thiện chiến của Vùng I, Vùng II chiến thuật và thủy quân lục chiến nhiều lần tấn công vào Đỗ Xá nhưng đều không thành công. “Dân quân du kích và đồng bào các dân tộc tổ chức bố phòng bằng chông thò kín các ngả đường và các điểm cao trọng yếu, kể cả xây dựng các trận địa bắn máy bay, sẵn sàng chiến đấu. Hàng trăm lính bị tiêu diệt, hàng chục máy bay trực thăng bị bắn rơi, buộc địch phải rút lui... Sự chú tâm càn quét của địch và quyết tâm chiến đấu bảo vệ của ta cho thấy ý nghĩa quan trọng và vai trò lịch sử của mật khu này” - ông Cao nói.
Về phía quân đội Sài Gòn, tham gia những đợt tấn công mật khu Đỗ Xá có các tên tuổi nổi tiếng như Ngô Quang Trưởng, Bùi Thế Lân, Lê Nguyên Khang, lúc đó hãy còn là những sĩ quan cấp úy. Tướng Nguyễn Văn Hiếu của quân đội Sài Gòn thừa nhận trong hồi ký Hai lần thâm nhập mật khu Đỗ Xá: “Tướng Khánh cũng đã thử tài tung quân vào mật khu Đỗ Xá, với sự trợ lực của Trung tá Ngô Dzu, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2. Nhưng họ đã bị thất bại một cách ê chề vì đạo quân tung vào bị địch quân đánh dội trở ra sau khi nướng mất trọn một tiểu đoàn...”.
Ngày 28.4.1964, nhật báo New York Times tường thuật: “Hai mật khu Việt cộng là Đỗ Xá và Mang Xin, do cộng sản kiểm soát từ cuộc chiến Đông Dương chống Pháp sau Đệ nhị Thế chiến. Quân lính chính phủ xâm nhập vào vùng này lần đầu tiên năm ngoái, nhưng đã không diệt được sự kháng cự của Việt cộng...”. Sau đó, hãng tin UPI của Mỹ tường thuật từ Sài Gòn: “Quân lực Việt Nam cộng hòa cũng đã tổ chức hai cuộc xâm nhập vào mật khu này... Các nguồn tin Hoa Kỳ nói mỗi chiếc trực thăng sử dụng trong cuộc không vận đều bị trúng đạn của hỏa lực cộng quân bắn từ dưới đất... Các nguồn tin này chối bỏ việc lực lượng chính phủ bị sa lầy, nhưng nhiều báo cáo lại nói ngược lại”.
Thế trận của mật khu Đỗ Xá được nhà báo Võ Thế Ái (Thông tấn xã Việt Nam) ghi lại trong hồi ký Bước chuyển lớn trên Trường Sơn: “Đồng bào thấy cách mạng kêu gọi đóng góp nuôi quân thì hưởng ứng nhiệt liệt. Vượt qua mọi việc dò xét, các buôn làng dựng lên hàng loạt kho gạo cách mạng... Ngoài việc tăng diện tích trồng lúa, đồng bào còn làm thêm nhiều rẫy sắn dành hẳn cho lực lượng thoát ly, gọi là rẫy cách mạng”. Ông Hoàng Minh Thắng sau này là Bộ trưởng Bộ Thương mại vẫn đau đáu về những hy sinh to lớn của đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây: “Chúng ta phải có trách nhiệm để người dân, những người từng cưu mang chúng ta để cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, có được cuộc sống no đủ. Âu đó cũng là sự trả nghĩa cho họ”.
Trên mảnh đất hôm nay
Nam Trà My là một trong 62 huyện nghèo nhất nước, có đến 64% trong số 24 nghìn dân thuộc đối tượng nghèo theo chuẩn cũ. Nếu tính theo chuẩn mới, con số này lên tới 84%. Đây là vùng núi non hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt nhưng việc đầu tư hạ tầng và các chính sách của nhà nước chưa tương xứng. Toàn huyện hiện có 10 xã với hơn 97% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống theo tập quán tự sản tự tiêu, không có ruộng lúa nước nên lúa rẫy thường bị mất mùa nếu thời tiết không thuận lợi...
Người dân Nam Trà My sống bằng cây quế, cây sâm Ngọc Linh và loài cá niêng. Nhưng giống quế thuần chủng bị pha tạp, giá cả tùy thuộc vào tư thương. Bột quế cũng khó tiêu thụ vì bị mất thương hiệu. Cây sâm Ngọc Linh là thế mạnh của vài xã nhưng cũng gặp khó khăn về giống và nạn mất cắp. Còn cá niêng thì ngày càng ít đi do môi trường bị xâm hại và nạn đánh bắt theo kiểu hủy diệt. Tập quán sản xuất và cơ chế chính sách dành cho đồng bào miền núi chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Trên con đường Nam Quảng Nam mới mở nối thị trấn Tăk Pỏ đến huyện Tu Mơ Rông (Kon Tum) với vốn đầu tư gần 1.300 tỷ đồng nhằm phát triển vùng kinh tế Nam Trà My, nhiều ngôi nhà xây, mái tôn của người miền xuôi lên xây dựng và mở cửa hàng buôn bán. Những chiếc xe thồ chở đầy hàng từ hướng Tiên Phước lên cung cấp hàng tươi cho các lán trại công nhân cầu đường. Hàng nghìn mét khối gỗ ven những cánh rừng nguyên sinh quanh khu vực Ngọc Linh đã được đốn hạ “tận thu” để làm đường. Xóm nhà người đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã Trà Mai, Trà Dơn vẫn nằm cách biệt trên những bờ dốc đứng cheo leo, bên những cánh rừng nguyên sinh và những nương rẫy bé tẹo. Dường như họ không quan tâm đến nền “kinh tế thị trường” đang nhộn nhịp bên ngoài. Nhiều thanh niên địa phương bỏ học, hàng ngày vào rừng bứt mây, lột quế hoặc đi làm công ngày nào đòi tiền ngày ấy chỉ để... uống rượu. Tâm lý ỷ lại nhà nước và thói quen tư duy tự sản tự tiêu cứ mãi kiềm hãm sự phát triển của họ... Rõ ràng, rất nhiều sự đầu tư của Nhà nước cho vùng cao như Nam Trà My, nhưng sự dàn trải, manh mún trong đầu tư, tư duy ỷ lại và tập quán sản xuất lạc hậu đã khiến cho cơ hội hưởng thụ “sự trả nghĩa” của người dân ở mật khu xưa, như cách nói của ông Hoàng Minh Thắng, trở nên ít hiệu quả.
TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG