Qua cầu vạn tình thương

Ghi chép của HỒ DUY LỆ 16/06/2014 14:28

Trở lại Nông Sơn bằng ca nô cao tốc của Công an đường sông. Khi bước lên chiếc cầu cao vòi vọi bắc qua hai bờ sông Thu Bồn thì ký ức trong tôi tràn về bao câu chuyện buồn, vui. Tôi kể một vài câu chuyện còn nhớ, có ghi sổ tay:

Nông Sơn - Trung Phước là một trong 3 “khu chiến” trong chiến dịch Thu - Đông 1974. Chiến dịch diễn ra trên một trận địa có diện rộng trên vùng đồi núi tây Quảng Nam, từ Hòn Chiêng - Quế Sơn, đến An Hòa - Đức Dục - Duy Xuyên, từ Nông Sơn - Trung Phước của Quảng Nam kéo ra đến Thượng Đức -  Đại Lộc của Quảng Đà. Là chiến dịch nhằm tiêu diệt các căn cứ địch chốt sâu trong vùng giải phóng ở Nông Sơn và Thượng Đức, ý đồ của quân Giải phóng là câu chủ lực địch ra ứng cứu giải vây để có thể tiêu diệt một lực lượng quan trọng chủ lực địch, mở rộng và củng cố vùng giải phóng, uy hiếp căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng của địch từ phía tây nam.

Cầu Nông Sơn. Ảnh: PHƯƠNG THẢO
Cầu Nông Sơn. Ảnh: PHƯƠNG THẢO

Căn cứ Nông Sơn chốt chặn trên một đồi cao 298 mét bên bờ sông Thu Bồn. Cứ điểm chốt giữa vùng giải phóng của ta, gây nên rất nhiều khó khăn và gieo rắc không biết bao nhiêu tội ác với nhân dân vùng giải phóng Hiệp Đức - Quế Sơn.

Tham gia ở khu chiến này có Sư đoàn 2 bộ binh do Sư trưởng Nguyễn Chơn chỉ huy. Ngoài các hoạt động phối hợp chiến trường diễn ra ở nhiều nơi, lực lượng của tỉnh Quảng Nam có nhiệm vụ cùng bộ đội công binh mở con đường chạy ven dưới chân các chốt điểm của địch ở Hòn Chiêng, Động Mông, Đá Hàm. Bấy giờ Công binh Sư đoàn 2 có xe cơ giới cùng lực lượng của các ban giao thông và nhân dân ngày đêm ban xúc, ủi đất đắp đường. Đường thông đến đâu thì hàng vận chuyển đến đó. Để che mắt địch, quân Giải phóng đưa một vài xe máy cày nổ máy cày xới trên cánh đồng Sơn Khánh - dưới chân cao điểm Bàng Thùng và Đèo Le. Tiếng xe cày nổ ầm ầm hòa trong tiếng ô tô vận chuyển vũ khí rùng rùng vang vọng núi đồi làm cho dân trong vùng vui mừng và hy vọng một trận đánh lớn đang sắp diễn ra. Thời gian này cán bộ Quảng Nam, Quảng Đà, thỉnh thoảng không phải xuống Phú Diên, Đồng Lùng lấy gạo mà đi ngược lên bến Trà Linh - Tân An gùi gạo “xã hội chủ nghĩa” về ăn. Mỗi chuyến đi, anh chị em còn được ăn những chiếc bánh B1, B2 từ hậu phương lớn chuyển vào. Xe ô tô chạy giữa ban ngày không ngụy trang, thỉnh thoảng dừng lại một trạm đổ xuống mấy bao gạo trắng non phân phát cho dân bám trụ. Từ những chuyến xe như thế bộ đội Giải phóng đưa được hàng trăm tấn vũ khí, lương thực vào tận khu chiến mà địch không hay biết.

0 giờ 15 phút ngày 18.7.1974, quân Giải phóng nổ súng diệt chốt điểm Cà Tang. 17 giờ 5 phút ngày 18.7.1974, lá cờ chiến thắng Sư đoàn 2 được cắm trên nắp hầm chỉ huy cao điểm Nông Sơn... Giải phóng Nông Sơn - Trung Phước, giải phóng 20.000 dân 3 xã thuộc huyện Quế Sơn và thị trấn Trung Phước. Để phòng khả năng địch phản kích chiếm lại, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trương dời dân lên vùng giải phóng Quế Tiên (nay là Hiệp Đức) để có khả năng giữ dân và có đất cho dân sản xuất lo cho cuộc sống. Bấy giờ, những cán bộ, đảng viên các cơ quan Dân Chính Đảng, là những người đã phải sống cảnh mồ côi dân nên không tả nỗi mừng vui khi tiếp xúc với hàng chục ngàn dân được giải phóng sau trận công đồn. Thật khó mà thấu hiểu cảm xúc của bà con mới hôm qua đang ở trong khu dồn, có những người ở tại chỗ, có những người ở các làng thôn cận kề bị dồn vào, sau một trận kịch chiến thì họ bỗng trở thành người dân ở trong vùng giải phóng. Nỗi lo của bà con lúc bấy giờ là dựa vào đâu để sống. Trong họ còn rối bời những nghĩ suy khi quân Giải phóng xuất hiện, quân ngụy rút chạy và tiếng máy bay do thám của Mỹ đang vo vo trên bầu trời? Mong cho có dân, nhưng một lúc đưa hàng chục ngàn người dân từ trong khu dồn ra, thì việc giải quyết cho hàng ngàn gia đình đang bị xé banh, bị chia cách là vô cùng gay go, bà con ta sẽ ở đâu, ăn đâu, làm gì trên mảnh đất còn đầy vết đạn bom hoang hóa những ngày tiếp theo, khi chiến tranh dường như chưa có ngày kết thúc?

Để đánh được và đánh thắng cứ điểm Nông Sơn, bộ đội Giải phóng đã vận chuyển vũ khí và hành quân theo những con đường bí mật - những con đường  nằm trong hệ thống đường Trường Sơn huyền thoại. Ngày nay, có ba con đường chính đến với Nông Sơn: Theo đường tỉnh lộ 104 (nay là đường 610) từ thị trấn Nam Phước lên Kiểm Lâm, An Hòa - Đức Dục qua Phường Rạnh đến Trung Phước - đoạn đường này đến nay vẫn chưa đưa vào kế hoạch khơi thông nối tây Duy Xuyên với Nông Sơn. Theo con đường một 105 - đường 611,  từ ngã ba Hương An, lên Đèo Le, ra Trung Phước đến Nông Sơn. Và, con đường hấp dẫn là đi thuyền theo sông Thu Bồn, ngược dòng qua danh thắng Hòn Kẽm - Đá Dừng đến vùng cây trái nổi tiếng Đại Bình và thị trấn Trung Phước đến mỏ than Nông Sơn. Ngày nay, tỉnh “cắt” phần đất phía tây Đèo Le của Quế Sơn, thành lập huyện Nông Sơn xây dựng huyện lỵ tại thị trấn Trung Phước.

Dọc theo ba tuyến đường trên, ngày ấy có những điểm cao quân thù từng chiếm đóng xây nên những chốt điểm kiên cố như Bàng Thùng, Hòn Chiêng, Đá Hàm, Cà Tang, Đồi Tranh, Chóp Chài, Dương Côi, Văn Chỉ, Kỳ Vỹ… Từ thung lũng Quế Sơn băng qua Đèo Le lên Trung Phước, lên Tý Sé, Dùi Chiêng, Hòn Kẽm - Đá Dừng. Từ Đèo Le ra Trung Phước, qua sông Thu Bồn, gặp làng Đại Bình, qua vùng B của Đại Lộc lên Giằng, lên Hiên - vùng dân tộc ít người - căn cứ cách mạng của miền tây Quảng Nam. Trong xây dựng hòa bình, là ba con đường cho phát triển du lịch sinh thái và truyền thống hết sức thú vị, vô cùng giá trị, chưa được khai thác và phát huy để góp phần quan trọng làm thay đổi đáng kể vùng đất đầy tiềm năng kinh tế và văn hóa truyền thống của quê hương.

Cùng với dòng Thu Bồn lúc vui lặng lờ trôi, lúc giận thì kéo nước nguồn xuống ầm ào trôi cuốn phăng những gì lũ băng qua, người Nông Sơn, người Cà Tang từng chứng kiến bao nhiêu biến cố, trong đó có trận lụt năm Thìn 1964 làm chết và mất tích trên 7.000 người và vụ chìm đò vào chiều 19.5.2003 làm chết 18 em học sinh lớp 8. Cả hai lần người dân chết vì nước cuốn trôi đều làm rơi nước mắt bao người.

Sau bao nhiêu năm, giờ tôi lại đi qua cầu Nông Sơn - tôi gọi cầu “vạn tình thương”. Khi vụ chìm đò xảy ra, ngoài thông tin kịp thời trên các báo đài của tỉnh Quảng Nam và TP.Đà Nẵng, các báo trên cả nước, thì các báo mở cuộc vận động đóng góp tiền làm một cây cầu bắc qua sông nơi bến đò Cà Tang. Thông qua các báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ... bà con đóng góp trên chục tỷ đồng (trong đó có 800 nghìn yên của nhóm lưu học sinh ở Fukuoka). Cùng với kinh phí của tỉnh, cây cầu có trị giá 20 tỷ đồng được khánh thành ngày 30.4.2005.

Đi qua chiếc cầu này là nhớ thảm họa chìm đò. Là nhớ buổi chiều buồn, sau những ngày nắng hè oi bức, bỗng trời hầm hập xuống dông, các em học sinh hối hả chen lên đò để qua sông. Con đò của ông già Nghĩnh thân thương biết chừng nào của các em rời bến Cà Tang chừng năm, bảy mét đã bị sóng và dòng nước xoáy làm chiếc thuyền khẳm chênh chao. Tay chèo vững vàng từng trải của ông Võ Nghĩnh năm ấy bỗng rung lên và run bần bật. Và dòng nước dữ cuồn cuộn cuốn trôi. Tiếng khóc, tiếng la... Nỗi đau sẽ còn dai dẳng.

Người Quảng Nam hay nhắc đến những trận đánh hay, không chỉ nhằm tôn vinh chiến công, biết ơn cha anh, mà cố nhìn thấu đáo để thấm thía những hy sinh, mất mát của chiến sĩ Giải phóng quân, của cán bộ và nhân dân cho vùng đất phải đổi bằng máu xương nhưng nhiều người dân chưa thoát được nghèo!

Qua cầu bỗng nhớ các em học sinh đầy thơ ngây... Qua cầu, chúng ta không chỉ nhớ, biết ơn mà suy nghĩ phải làm gì tốt hơn, có hiệu quả hơn cho người dân anh hùng vốn chịu nhiều mất mát, đau buồn trên mảnh đất thân yêu này!

 Ghi chép của HỒ DUY LỆ

Ghi chép của HỒ DUY LỆ