Vần thơ mai trắng
Đất Quảng Nam có một thi nhân hay chữ, từng đi sứ Trung Hoa 2 lần, làm thơ xướng họa với nhiều danh sĩ phương Bắc và được khen “tú ngữ đoạt sơn lục” (vẻ đẹp của lời thơ át cả vẻ hùng vĩ của núi xanh). Người ấy chính Hà Đình Nguyễn Thuật.
Nguyễn Thuật, bút hiệu Hà Đình, quê làng Hà Lam (huyện Thăng Bình), thi đỗ rồi làm quan vào nửa cuối thế kỷ XIX, từng giữ chức Thái tử thiếu bảo - Hiệp biện đại học sĩ, giảng dạy các hoàng tử suốt 4 triều từ thời vua Tự Đức trở về sau. Thơ văn của Hà Đình phần lớn là chữ Hán mà trong đó “Mỗi hoài ngâm thảo” I và II tập hợp nhiều nhất những bài thơ về đề tài phong cảnh Trung Hoa, Việt Nam. Những bài vịnh cảnh ấy - nhất là mô tả cảnh mùa xuân - thật đặc sắc, qua đó thể hiện tình yêu nước kín đáo của “người đi sứ” vào buổi lụi tàn trong quan hệ của hai nước thời phong kiến.
Bàn về giai đoạn “đặc biệt” này, sử gia Trần Trọng Kim đã viết trong Việt Nam sử lược: “Từ năm Giáp Tuất 1874 trở đi, triều đình Huế đã ký tờ hòa ước với nước Pháp, công nhận nước Nam độc lập, không thần phục nước nào nữa. Nhưng lúc bấy giờ vì thế bất đắc dĩ mà ký tờ hòa ước, chứ trong bụng vua Dực Tông (Tự Đức) vẫn không phục, cho nên ngài cứ theo lệ cũ mà triều cống nước Tàu, có ý mong khi hữu sự, nước Tàu sang giúp mình”. Nguyễn Thuật đi sứ trong hoàn cảnh ấy. Có điều, ngoại trừ nhật ký ghi chép hoạt động của sứ bộ trình cho nhà vua đầu năm 1884, thơ văn ông ít đề cập thời thế, nếu có cũng chỉ là bóng gió xa xôi…
Ông có câu thơ trong bài “Viết chớp nhoáng khi qua Lư Cầu kiều” rất lạ, đáng được xem là một tuyệt cú: Lậu xuân phá lạp nhất chi mai (Mùa xuân đến thay đổi cảnh sắc tháng chạp bằng một cành mai). Xuân tha phương, Hà Đình bồi hồi thương nhớ quê nhà: Tranh xúc Lĩnh Nam xuân tín cận/ Hương tâm tiên trục mộng trung hồi (Dịch nghĩa : Gần chạm (cõi) Lĩnh Nam tin xuân (càng) tới gần/ Lòng nhớ cố hương về sớm theo giấc mộng). Tròn một năm đi sứ, trên bước đường về, ông lại viết: Giang mai tình tuyết tảo xuân thiên/ Yên cảnh y nhiên tiết sứ hoàn (Dịch nghĩa: Hết tuyết, hoa mai bên sông báo xuân đến sớm/ Cảnh khói sương như cũ lúc người đi sứ trở về).
Đến sông Minh Giang, gần biên giới, Hà Đình viết những câu thơ đầy ẩn ý: Nhứt sự quan hoài bát bất khai/ Lâm phong, nhựt vọng hảo âm lai/ Quốc tăng hồng phúc gia vô dạng/ Tranh thắng thiên kim mãn tải hồi - Minh giang châu trung hỉ tác (Dịch nghĩa: (Có) một việc mong mãi mà chưa nói ra/ Gió về, ngày ngày ngóng tin tốt đẹp đưa lại/ Nước thêm phước lớn, nhà không có chuyện gì/ Tranh (được) hơn ngàn vàng chở đầy trở về!). Khi về đến ải Nam Quan, ông viết một câu nữa cũng ẩn ý không kém: Tích tuế hương quan mộng mị tần/ Kim triêu vân thụ nhãn trung chơn/ Đoàn thành sơn thủy hồn như tác/ Địa chủ tân lai thị cố nhân - Minh giang châu trung hỉ tác (Dịch nghĩa: (Cả) năm qua mơ mãi về chốn cố hương/ Sáng nay mới thực thấy rõ cảnh sắc quê nhà/ Vẻ sông núi quanh quan ải vẫn như xưa/ Người chủ đất mới đến lại là người cũ).
Chưa có điều kiện tìm hiểu sâu ý tứ của tác giả trong hai bài này, nhưng xem các ý “tranh thắng thiên kim mãn tải hồi” và “địa chủ tân lai thị cố nhân” thì có vẻ như Nguyễn Thuật và sứ bộ đã đem về cho nước nhà một thắng lợi lớn. Thắng lợi đó là gì? Câu trả lời xin nhờ các nhà sử học.
Giai thoại còn truyền: thi nhân phương Bắc chẳng ai dám đề thơ trên lầu Hoàng Hạc vì trước đó Thôi Hiệu đã có bài thơ “Hoàng hạc lâu” tuyệt tác. Vậy mà, ông sứ giả nước Nam Hà Đình Nguyễn Thuật đã dám phóng tay viết đến 2 bài thơ về tòa lầu nổi tiếng này, mà ai cũng chịu là hay. |
Thơ xuân của Hà Đình đầy hình ảnh mai trắng. Trên đường từ phủ Cam Lộ đến huyện Mai Lĩnh - Quảng Trị, ông thấy: Bán lĩnh lộ hòa mai nhị bạch (Nửa ngọn núi hiện rõ cùng đám mai trắng). Tiễn một ông quan hưu trí về quê ở Nam kỳ, ông cũng viết: Mai cương hà xứ trú ngâm yên/ Hương mộng du du thủy nguyệt hàn (Gò mai giờ náu chốn nào?/Quê nhà nương bóng chiêm bao lạnh lùng).
“Mai cương” ở đây là gò mai trắng nằm giữa thành Gia Định xưa. Văn nhân thi sĩ thời ấy dùng hình ảnh “Mai cương” để chỉ vùng Gia Định nói riêng và miền Lục tỉnh nói chung, lúc ấy đã rơi vào tay giặc Pháp. Đọc “câu thơ mai trắng” trên có thể thấy tâm sự Hà Đình trong hoàn cảnh đó thê thiết đến nhường nào!
Ông quan hay chữ thời mất nước ấy chỉ còn biết mong ngóng ngọn gió đông nam báo hiệu mùa xuân “núi sông thu về một mối” mà ông hằng ao ước: Hữu nhật mai cương qui tích thụ/ Hội khan tài mỹ tận đông nam - Bồn trung tiểu mai nguyên vận (Dịch nghĩa: Ngày nào đó gò mai góp lại đầy đủ cỏ cây xưa/ Sẽ có dịp cùng nhìn những điều tốt đẹp trải khắp vùng đông nam).
Hà Đình qua đời tháng 11 năm Tân Hợi (1911). Giấc mơ được gặp lại “gò mai trắng” trong gió mùa xuân của ông đã được hậu thế thực hiện đủ đầy. Mùa xuân, đọc lại những vần thơ mai trắng của ông, lòng cứ nao nao…
Phú Bình