Tết Nguyên đán là lễ lớn nhất trong năm, một trong những phong tục của người Việt từ xưa đến ngày nay.
Dưới thời kỳ Pháp thuộc, mặc dù bị hạn chế do những chính sách thuộc địa nhưng người Việt vẫn luôn giữ gìn hồn cốt tết cổ truyền của dân tộc. Điều đó thể hiện qua các ghi chép của những công chức, nhà nghiên cứu người Pháp từng sinh sống và làm việc tại Việt Nam thời kỳ này.
Lễ cúng tổ tiên và ông Táo
Paul Giran (1875 - 1921) là một quan chức cai trị thuộc địa người Pháp, từng giữ chức Tham biện Dân sự vụ Đông Dương, sau trở thành Phó Công sứ rồi Công sứ, công tác tại nhiều tỉnh Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Lào. Năm 1904, Paul Giran xuất bản tác phẩm “Psychologie du peuple annamite”, nhan đề tiếng Việt là “Tâm lý dân tộc An Nam”.
Năm 1912, ông tiếp tục xuất bản thêm cuốn sách “Magie et religion annamites”, có tên tiếng Việt là “Phù thuật và tín ngưỡng An Nam”. Hai tác phẩm này ghi chép, phân tích về các vấn đề văn hóa xã hội, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, tổ chức bộ máy hành chính… của nước An Nam.
Về các nghi lễ Tết Nguyên đán, Paul Giran cho biết: “Các nghi lễ cũng quy định việc dâng cúng các bữa ăn cho tổ tiên gia đình vào những thời điểm nhất định trong năm.
Trước tết ít lâu, phải chăm sóc dọn dẹp mồ mả; đêm giao thừa, phải chuẩn bị một bữa ăn và dâng cúng thức ăn trên bàn thờ tổ tiên. Theo lễ nghi này trong ba ngày tết, phải đặt thức ăn như một phẩm vật trước tất cả bàn thờ, từng ngày, thay mới vào những giờ ăn hằng ngày”.
Paul Giran viết tương đối kỹ về tục cúng ông Táo: “Ông vua bếp, dịch đúng nghĩa đen là vua của bếp, hoặc còn gọi là ông Táo, ngài được biểu hiện trong mỗi gia đình bằng hình ảnh một cái lò; nhưng đây là loại bếp lò thời nguyên thủy vốn được tạo ra từ ba trụ đất sét chỉ chuyên dùng nấu cơm.
Một số bếp nấu khác tiện lợi hơn được dùng làm bếp bình thường. Ngài là vị giám hộ của gia đình, giám sát mọi hành vi của họ; tùy độ chú tâm tuân thủ những chỉ định thờ cúng ngài, mà hạnh phúc hay khổ sẽ chiếm lĩnh trong ngôi nhà.
Cấm trò chuyện ầm ĩ hoặc thực hiện những chuyện bất sự trong gian phòng dành cho ông vua bếp; ta không thể khóc ở đó, không được hát hò, cãi lộn, làm vấy máu, cũng không được đưa vào đồ uế tạp như rác, xương, lông gà vịt, thịt chó, không được bóc tỏi hoặc bóc hành ở đó”.
“Ngày hai tư tháng Chạp, ông vua bếp về trời gặp Ngọc Hoàng để báo cáo những hành vi tốt hoặc xấu đã phạm trong suốt năm của gia đình mà ngài chịu trách nhiệm giám sát. Chính vì thế, vào hôm trước ngày này, nhằm ngày hai ba, tất cả gia đình đều tổ chức lễ khởi hành của vua bếp.
Với mục đích này, mỗi gia đình trang bị hai bộ mũ, hoặc một bộ đồ hàng mã; mỗi bộ gồm ba mũ và đôi khi là bộ lễ phục hoàn chỉnh, cũng như ba gói đựng những thỏi vàng hoặc bạc, tất cả được đặt trên một cái bệ hoặc ngai vàng cũng được làm bằng giấy.
Một trong các bộ này được dành cho vị thần mà ta tổ chức lễ khởi hành; bộ còn lại dành cho vị thần bếp của năm mới khi ngài đến nhà. Bởi lẽ ở An Nam, khác với ở Trung Hoa, vị thần bếp được thay đổi mỗi khi năm mới đến. Ở đây có một biểu tượng sâu sắc”.
Tục dựng cây nêu
Georges Pisier (1910 - 1986) là nhà sử học người Pháp. Ông từng giữ chức Tham biện thuộc địa Pháp ở Đông Dương. Trong thời gian công tác, ông đã dành nhiều thời gian ghi chép về văn hóa, lịch sử con người các nước thuộc địa Đông Dương, trong đó có Việt Nam.
Georges Pisier đã ghi chép về lễ cúng Táo quân: “Việc chuẩn bị thực sự bắt đầu cùng với lễ Táo quân hoặc tết Táo quân. Ngày 23 tháng Chạp, ông Táo hay còn gọi ông vua bếp, đi lên trời trong bảy ngày để báo cáo với Ngọc Hoàng. Vào dịp này, vua bếp cưỡi cá chép tượng trưng, được bán đầy trong các chợ vào sáng ngày 23…
Người ta không quy định nội dung và nguồn gốc của Táo quân. Hình tượng nhân vật này là ba người gộp lại. Người An Nam thường nhầm lẫn ông Táo với Thổ công. Sự tưởng tượng dân gian cho Táo quân là hình ảnh đại diện cho một gia đình”…
Georges Pisier viết rất kỹ về tục dựng cây nêu: “Người ta dựng “cây năm mới” (câu nêu), một cây tre dài vài mét, được trang trí bằng một chùm lá, trên đó người ta treo một chiếc vòng tròn bằng tre có móc nhiều con cá nhỏ, chuông nhỏ và khánh bằng đất sét nung.
Người ta buộc một túm lá, các thỏi vàng bằng giấy, trầu cau, cành thơm hoặc cành xương rồng. Người ta cũng treo một cái đèn lồng ở trên ngọn cây. Cây năm mới có nhiệm vụ thiết yếu, đó là hướng dẫn tổ tiên trở về nhà ăn tết với người sống bằng chiếc đèn lồng treo trên cây.
Những âm thanh phát ra từ các đồ vật đung đưa trước gió sẽ giúp xua đuổi tà ma. Người ta cũng sử dụng phương pháp khác để tự bảo vệ mình. Người ta dùng vôi trắng vẽ các đường cung tên có mũi tên chỉ các hướng ở trước ngôi nhà, hình các đống lửa bảo vệ chống lại đội quân ma quỷ”.
Ăn “tết cả”
Indochine là tờ báo tiếng Pháp của Hội Alexandre de Rhodes, ra đời vào năm 1940 với sự cộng tác của nhiều nhà nghiên cứu là thành viên của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp. Indochine số 177, ngày 20/1/1944 có đăng tải một bài viết của Bouchet được trích từ tác phẩm “Au Coeur des rites et des traditinons” (Giữa những tập tục và truyền thống), ghi chép về nước An Nam trong chuyến công tác dài kết thúc vào năm 1935.
Về lễ Tết Nguyên đán, Bouchet ghi chép như sau: “Chúng ta đang ở cuối tháng mười hai âm lịch. Chẳng mấy lúc nữa năm cũ, theo cách nói của người An Nam, “sẽ chuyển giao cho năm mới”. Vì thế mọi người đang rầm rộ sửa soạn cho ngày lễ, ở Pháp gọi là lễ ngày đầu tiên của năm còn ở An Nam gọi là “tết cả”, có nghĩa là lễ chính, hay còn gọi là “Tết Nguyên đán” có nghĩa là lễ buổi bình minh đầu tiên.
Có một ngạn ngữ cổ nói: “Tháng Giêng là tháng ăn chơi”, thật đúng như vậy! Ở An Nam thay vì nói “làm lễ” (célébrer une fête) thì người ta nói “ăn tết” (manger la fête) đặc biệt là đối với Tết Nguyên đán; trong các gia đình giàu có cũng như nghèo, người ta “ăn tết” nhiều ngày”.
Qua vài tư liệu đã cung cấp nhiều thông tin bổ ích, thú vị về Tết Nguyên đán như tục cúng ông Táo, tục dựng nêu, những nghi lễ dân gian ngày tết… giúp chúng ta hiểu biết hơn về đời sống văn hóa, thuần phong mỹ tục của người Việt xưa, đồng thời khẳng định truyền thống, bề dày văn hóa dân tộc Việt.