Nhà thơ Thu Bồn là một cá tính đặc sắc cả về sáng tác và đời thường của thế hệ các nhà văn chống Mỹ. Ông vừa được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2016 (lễ trao giải diễn ra ngày 20.5.2017 tại Hà Nội). Đó là sự ghi nhận, tưởng thưởng xứng đáng với đóng góp xuất sắc của thi sĩ Thu Bồn vào sự nghiệp phát triển nền văn học nghệ thuật nước nhà. Người ta đã nói nhiều, viết nhiều về chất thi sĩ của Thu Bồn. Ở bài viết này, tôi xin chỉ viết về một số tình tiết, cá tính trong đời thường của ông.
Nhà thơ Thu Bồn. |
Năm 1980, những nhà văn nhà thơ ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế của Văn nghệ Quân đội được điều lên nông trường Mỏ Chén để tăng gia sản xuất. Những năm ấy cả nước đói. Văn nghệ sĩ lại càng đói. Khi đói thường cũng không nghĩ được gì xa xôi, chỉ nghĩ đơn giản là tăng gia sản xuất để chống đói. Thơ văn để đấy tính sau. Các nhà văn quân đội hành quân lên đường. Không hiểu thế nào cấp trên cắt cử Thu Bồn làm tổ trưởng tổ sản xuất, dẫn các nhà văn nhà thơ trong đó không ít người trói gà không chặt lên nông trường. Thu Bồn phấn khởi lắm. Dù gì cũng là chức tổ trưởng. Nhiệm vụ được giao là: Làm cỏ lúa nước, giã gạo bằng chày theo kiểu sóc Bom Bo, chăn bò, dọn chuồng heo, đắp đập ngăn mương lấy nước. Anh cán bộ nông trường mặt lúc nào cũng nghiêm trọng dặn đi dặn lại Thu Bồn: “Các anh các chị phải hoàn thành bằng được chỉ tiêu đã ký kết. Đói mấy cũng phải bấm bụng. Không được nhổ trộm sắn của nông trường. Anh nào nhổ trộm ban đêm cảnh vệ bắn, chết chịu”.
Thu Bồn gãi đầu gãi tai trước mớ nhiệm vụ và những lời căn dặn. Thi sĩ ậm ừ cho xong rồi hùng dũng dẫn anh em tiến ra nông trường. Ai cũng tưởng bở nhưng động chân động tay vào công việc mới thấy không phải chuyện đùa. Những Phạm Ngọc Cảnh, Lê Lựu, Ngô Thảo, Duy Khán, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Thị Như Trang… có tài giời cũng không thể biến thành công nhân nông trường ngày một ngày hai được. Nữ sĩ Như Trang nhìn thấy đỉa từ xa đã la hét ầm ĩ. Thi sĩ Duy Khán cầm cây cỏ lắc bên này nghiêng bên kia xem xem ngó ngó như người trên trời. Đến như Lê Lựu, nguyên nông dân phủ Khoái loại một mà khi giao cho dượt đàn bò thả hoang mặt mũi cũng tái nhợt, chân bước không vững. Chỉ tiêu được giao ngày càng xa vời. Hãi nhất là đàn bò thỉnh thoảng chạy rông vượt qua đỉnh núi Ba Vành. Mọi người lo phát sốt bởi anh cán bộ nông trường đã đe mất bò thì phải đền. Lần đầu tiên trong đời chỉ huy, Thu Bồn ngồi đứng không yên.
Thu Bồn có sức vóc, ăn nhiều uống lắm. Lại thêm mấy ông văn nghệ sĩ lao động thì kém nhưng không hiểu sao chưa tối bụng dạ đã réo ầm ầm. Một tối đói quá, Ngô Thảo kều Thu Bồn rủ đi nhổ trộm sắn của nông trường. Hai người thì thào như đi buôn bạc giả. Mấy tổ viên còn lại biết tỏng cứ giả vờ nằm im. Đến gần nửa đêm, khi mùi sắn chín bốc lên, ai nấy bò ra đống lửa lặng lẽ ngồi ăn. Trong đêm tối, than tro đem nhẻm mặt mũi. Bỗng một ai đó nhắc: “Sột soạt khẽ thôi, không cảnh vệ biết mất mặt lắm, chúng mình là nhà văn”. Thu Bồn không nhịn được, buột miệng: “Đen thủi đen thui hết cả mặt làm gì còn mà mất”. Cả tổ phá lên cười. Ngoài trời sương núi Ba Vành rơi rét căm căm.
Rồi bằng tài năng của Thu Bồn, mọi chỉ tiêu của đoàn quân số 4 Lý Nam Đế không những hoàn thành mà còn vượt. Điều này đến bây giờ cũng đang còn là bí mật. Không biết Thu Bồn đã làm gì để vượt chỉ tiêu? Có lẽ chỉ các cô gái nông trường ngày ấy mới có câu trả lời chính xác?
Hôm tổ lao động chuẩn bị lên đường trở về nhà số 4, Trung tướng Lê Hai đến khen ngợi các nhà văn nhà thơ đã lao động và chấp hành kỷ luật tốt, nhất là tổ trưởng Thu Bồn. Vị tướng vốn rất yêu anh em văn nghệ sĩ, ông tặng cho các thành viên trong tổ mỗi người một cây bút bi và một chiếc khăn bông của nhà máy dệt mùng 8 tháng 3, một món quà rất có giá trị lúc bấy giờ. Phản ứng rất nhanh, Thu Bồn thay mặt anh em phát biểu cảm tưởng đâu ra đấy. Thi sĩ kết thúc bằng một đoạn thơ như sau:
Các cô nông trường cười chế giễu
Nhà thơ cũng biết chăn bò
Tôi cười đáp lại
Tôi không chăn bò đâu
Tôi chăn đôi sừng nhọn của tôi
Những tiềm lực của đất đai và sữa…
Mọi người ai nấy cười sảng khoái. Mấy cô gái nông trường đấm nhau thình thịch chỉ trỏ Thu Bồn. Thu Bồn thì dường như có vẻ luyến tiếc vùng đất nhiều sỏi đá và đỉa muỗi.
Trong những khoảnh khắc đời thường, Thu Bồn luôn sống rất thật. Rất thật với mình. Rất thật với anh em để rồi rất thật với thơ. Xưa nay, người đời viết về anh thường ưa thích khai thác những mảng như là trăng gió, cá tính hoang sơ thiên bẩm của thi sĩ mà ít nhắc đến những khoảnh khắc đời thường. Vẫn có một Thu Bồn khác. Một Thu Bồn đục thủng ba lô vác con dọc dãy Trường Sơn ra Bắc. Một Thu Bồn nhổ trộm sắn sì sụp nướng cùng anh em ở nông trường giữa đêm đông. Một Thu Bồn còng lưng vác đất đào đắp sông Tô Lịch cùng các đàn anh Thanh Tịnh, Vũ Cao, Từ Bích Hoàng… Một Thu Bồn mười mấy năm ở nhà số 4 cứ giáp tết ra đê sông Hồng đoạn gần cầu Long Biên mua mấy chú “nai đồng quê” về thui rơm nức mùi riềng sả.
Thu Bồn là thế. Cuộc sống đời thường của anh cũng như bao nhà văn nhà thơ nhà số 4 khác, đầy cay đắng, ngọt bùi, có lúc chỉ biết bầu bạn cùng sự im lặng. Năm tháng thời gian đi qua, từng khúc đời thường của các bác các chú, các chị các anh, như là Thu Bồn, cứ ứa lên cay mắt.
PHÙNG VĂN KHAI