Quá trình giao lưu tiếp biến âm nhạc Chăm và Việt
(VHQN) - Người Chăm thuở xa xưa từng sống trên vùng đất Quảng Nam - Đà Nẵng. Quá trình giao lưu, tiếp biến giữa âm nhạc Chăm với âm nhạc của các tộc người khác trên đất Việt để lại dấu ấn sâu đậm đến ngày nay.
Nổi bật nhất trong nghệ thuật âm nhạc Chămpa là dòng âm nhạc nghi lễ. Vì người Chăm quan niệm rằng âm nhạc là của thần thánh, cho nên âm nhạc của họ thường mang tính chất trầm lắng, u buồn.
Chính đặc tính ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến âm nhạc của một số tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á. Thế nhưng các sử gia triều Nguyễn thế kỷ 19 đã viết: “Khúc điệu Tây Thiên là thanh âm mất nước”, điều này nên xem xét lại vì thực sự không phải chỉ khi lãnh thổ bị thu hẹp dần thì âm nhạc người Chăm mới nhuốm màu sầu thương ủy mị.
Lịch sử ghi chép: vào thế kỷ 11, vua Lý Thái Tông sau khi thắng trận quân Chiêm đã bắt một số vũ nữ Chiêm Thành về nước để múa hát khúc Tây Thiên. Đến năm 1202, vua Lý Cao Tông lại yêu cầu các nhạc sĩ trong triều phải dựa vào nhạc Chăm để soạn khúc Chiêm Thành âm. Khi chúa Nguyễn mở cõi, tiến vào đất Chiêm Thành, âm nhạc Việt từ phía bắc tới phía nam đã chịu ảnh hưởng của nhạc Chăm và biến thành những cung Nam ai oán.
Ảnh hưởng của âm nhạc Chăm với âm nhạc Việt thể hiện rõ nét hơn cả ở thể loại dân ca như dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Huế, dân ca Nam Trung Bộ, dân ca Nam Bộ và dân ca Tây Nguyên. Sở dĩ có hiện tượng này là do quá trình giao thoa và tiếp biến văn hóa của cộng đồng người Việt xưa.
Một số nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian Việt Nam đã phát hiện những cung bậc giống nhau giữa làn điệu dân ca Chăm và làn điệu dân ca quan họ Bắc Ninh. Trong một số làn điệu quan họ cổ thường có những tiếng đệm i, hi, ư, hư... gần giống với các lối tụng ngâm của nhà chùa. Ngoài ra nó cũng tương tự với những điệu Nam ai, Nam bằng có giai điệu và tiết tấu ảnh hưởng tính chất của những khúc hát Chiêm Thành thể hiện nét buồn tĩnh lặng.
Còn về lĩnh vực di sản văn hóa vật thể, ngày nay chúng ta có thể nhận thấy kiến trúc xây dựng chùa chiền ở vùng Bắc Ninh được phỏng theo kiến trúc Chiêm Thành như: chùa Dâu xây theo kiểu tháp Chăm, hoặc chùa Phật Tích có nhiều hình chạm khắc những cung nữ Chăm đang gảy đàn, thổi sáo. Hiện tượng này cũng là một trong những bằng chứng đầy sức thuyết phục về ảnh hưởng của nền văn hóa nghệ thuật Chăm đối với vùng Bắc Ninh.
Đáng chú ý là các làn điệu dân ca Chăm rất gần gũi với những điệu lý như lý Hoài nam, lý Con sáo, lý Ngựa ô của người Việt ở Bình Trị Thiên; lý Con quạ, lý Thiên thai, Xuân nữ bài chòi ở Nam Trung Bộ. Trong quá trình tìm hiểu những nét đặc trưng của dân ca Chăm, chúng ta nhận thấy nhiều câu hát Chăm thường luyến xuống một quãng 2 trưởng và lối kết câu này xuất hiện nhiều trong các điệu hò, lý, hát ru của dân ca Bình Trị Thiên.
Có một bài hát mang tính chất hò lao động lại được tìm thấy trong một sinh hoạt nghi lễ, đó là bài MưkJal (Vãi chài) của Nam Trung Bộ. Có thể, trước đây trong đời sống của người Chăm còn tồn tại một hình thức ca hát, đó là hát lao động với tiết tấu đều đặn, nhịp nhàng để thay hiệu lệnh điều khiển động tác trong khi lao động cho đồng bộ, hơn nữa tạo thêm tinh thần phấn chấn vui vẻ mà quên đi mệt nhọc. Hình thức hát hò này rất gần với các điệu hò lao động của người Việt.
Có một số bài dân ca trong lao động của người Chăm mang âm hưởng của các điệu hò lao động trên sông nước tiêu biểu của người Việt ở miền Trung và Nam Trung Bộ như: hò mái nhì, hò mái đẩy ở Bình Trị Thiên; hò khoan, hò chèo thuyền ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng; hò mái trường, hò mái đoản, hò chèo ghe ở tỉnh Bến Tre.
Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy sự tương đồng về mặt giai điệu giữa các bài hát giao duyên của người Chăm với các bài hát giao duyên của các tộc người khác, đặc biệt là người Việt sống cận cư, cộng cư và xen cư với người Chăm.
Thật ra thì mối quan hệ giao lưu, trao đổi, tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau giữa âm nhạc dân gian Chăm, Việt và các tộc người khác là một quy luật tất yếu trong tiến trình của lịch sử.
Trước hết trong âm nhạc truyền thống của hai dân tộc có rất nhiều nhạc khí giống nhau. Đặc biệt trong một số nhạc khí thuộc họ dây của Chăm có cấu tạo và chức năng tương tự các nhạc khí truyền thống của người Việt như đàn tranh (Champi) và đàn bầu (Kaping), nay đã thất truyền ở vùng người Chăm sinh sống nhưng lại được bảo lưu và phát triển ở cộng đồng người Việt.
Trong quá trình lịch sử cộng cư, mối quan hệ giao lưu văn hóa tất yếu đã hình thành và phát triển giữa hai dân tộc mà trên thực tế có thể tìm thấy qua những nét gần gũi, tương đồng trong kho tàng văn nghệ dân gian cũng như trong lĩnh vực âm nhạc của người Việt và người Chăm.
Nhạc sĩ Trần Văn Khê đã từng kết luận: “Rõ ràng sự phân bố lan ra về phía nam của người Việt và của âm nhạc Việt là cả một quá trình giao lưu văn hóa và hòa hợp dân tộc rộng rãi, sâu sắc và lâu dài với người Chăm, khiến cho nhạc Việt đã nhuốm màu Chăm”.