Cọp trong nghệ thuật Chămpa
(Xuân Nhâm Dần) - Hình tượng dã thú xuất hiện nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật tại Ấn Độ; đồng thời cũng được tìm thấy trong nghệ thuật Đông Nam Á và Chămpa. Tại Khu đền tháp Mỹ Sơn, hình tượng cọp dù xuất hiện không nhiều nhưng để lại dấu ấn độc đáo.
Cổ thư Ấn Độ hướng dẫn những nghi thức thờ cúng trong kinh Yajurveda và những kiến thức về đời sống hàng ngày trong kinh Atharvaveda. Trong đó không chỉ ghi chép lời khấn nguyện thần linh ban cho sức mạnh và phẩm chất của loài cọp, mà còn cung cấp những câu thần chú và phép thuật để bảo vệ con người, nhất là những người chăn bò có thể khuất phục sự đe dọa của loài cọp.
Mặt khác, cọp còn là biểu trưng cho sức mạnh và sự tái sinh. Trong quan niệm Ấn Độ cổ đại, cọp gắn liền với quyền lực hoàng gia, sự uy nghiêm, không sợ hãi, sức mạnh và sự dữ tợn...
Cọp được thể hiện trên những con dấu từ nền văn minh Indus cổ đại. Hoàng đế triều đại Gupta vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, vua Samudragupta, trị vì vào đầu thế kỷ 4, đã đúc những đồng tiền vàng đặc biệt mô tả cảnh ông giết cọp để thể hiện quyền uy của vương triều.
Biểu trưng sức mạnh và triết lý sống
Trong nghệ thuật Chămpa, hình tượng cọp chỉ xuất hiện tập trung ở thế kỷ 8 - 9, là thời kỳ hoạt động mạnh mẽ của phái tu khổ hạnh Pasupata của đạo Shiva tại vùng Đông Nam Á. Trong những thế kỷ sau, nhất là thời kỳ của Phật giáo Mật tông, hình tượng cọp hầu như không còn được phổ biến.
Truyền thuyết ghi lại trong Shiva Purana rằng, khi Shiva còn là vị thần trẻ tuổi, ngài không màng đến trang phục. Có lần, Shiva lang thang đến một khu rừng, vốn là nơi cư trú của rất nhiều vị thánh cùng với gia đình của họ. Điều quan trọng hơn, Shiva lang thang trong khu rừng với cơ thể trần trụi, đó là lý do làm cho các phụ nữ trong làng hoảng hốt.
Shiva không quan tâm đến điều này, nhưng nó lại ảnh hưởng đến đời sống thường nhật của các vị thánh, vì thế họ quyết định phải cho vị thần trẻ Shiva một bài học.
Các vị thánh đã đào một cái hố dọc theo con đường thần Shiva đi qua và giấu một con cọp trong đó. Tuy nhiên, vị thần trẻ tuổi Shiva chỉ mất vài giây để tiêu diệt con cọp và tận dụng bộ da của nó để che cơ thể mình.
Do vậy, bộ da cọp tượng trưng cho chiến thắng của thần Shiva, bản tính hung hăng của con cọp cũng bị khuất phục trước sức mạnh của thần; tấm da cọp cũng tượng trưng cho bản lĩnh và trí tuệ khiến các nhà hiền triết phải bái phục và kính nể Shiva.
Thần thoại Ấn Độ cũng kể rằng, thần Shiva mặc tấm da cọp lâu đến nỗi không ai nhớ từ bao giờ. Chỉ khi thần Shiva quyết định kết hôn với nữ thần Parvati, nhiều vị thần đã đến gặp và thỉnh cầu thần Shiva thay đổi phong cách trang phục của ngài.
Nhưng thần Shiva từ chối những yêu cầu đó bằng nhiều lý do. Thần Shiva nói rằng quần áo ngươi mặc là dệt từ tơ của con tằm, những con vật đáng thương ấy sẽ bị giết để lấy tơ dệt áo; còn tấm da cọp ta đang mặc được lấy từ con cọp đã chết và như vậy không ai bị tổn thương bởi cách sống của ta.
Không chỉ xuất hiện cùng các vị nam thần, cọp còn gắn liền với hình ảnh các nữ thần trong thần thoại Ấn Độ. Cọp là linh thú hộ trì (vahana) của nữ thần Durga. Hình ảnh Durga cưỡi trên lưng cọp tượng trưng cho sự hợp nhất mạnh mẽ của quyền lực nữ giới thiêng liêng và đất mẹ; sức mạnh đó có thể chống lại cái ác không hề nao núng.
Cọp được biết đến như biểu trưng cho sức mạnh hoang dã và khó kiểm soát như giận dữ, kiêu ngạo, ích kỷ, tham lam, ghen tị, muốn làm hại người khác... Hình ảnh thần Durga ngồi trên lưng cọp như cách nhắc nhở con người nên kiểm soát tính xấu này, để tránh bị ý nghĩ tiêu cực chi phối hành động của con người.
Ngoài ra, trong các tranh minh họa chân dung nữ thần Durga, bà thường được mô tả mặc bộ trang phục màu đỏ, sắc màu này tượng trưng cho hành động tiêu diệt cái ác của bà, bảo vệ nhân loại giải thoát khỏi mọi khổ đau.
Dấu tích tại Mỹ Sơn
Trong nghệ thuật Chămpa, hình tượng cọp không được phổ biến bằng các linh thú khác như voi và sư tử. Trên đài thờ nổi tiếng Mỹ Sơn E1, tạc vào đầu thế kỷ 8, trong một ô vuông miêu tả cảnh một con cọp nhảy chồm về phía trước bộc lộ sức mạnh vô địch của vị chúa sơn lâm.
Việc thể hiện hình tượng cọp, trong tư thế khoe trương sức mạnh ngoại hình của mãnh thú, trên đài thờ kể chuyện những sinh hoạt thường nhật của các tu sĩ Bà-la-môn tại Khu di tích Mỹ Sơn, chính là biểu tượng cho sức mạnh nội tâm của các ẩn sĩ khổ hạnh sống đơn độc trong rừng sâu, thực hành theo phái Pasupata của đạo Shiva phổ biến từ thế kỷ 7 từ vùng Nam Ấn. Vì theo lời dạy trong kinh điển Bà-la-môn, “chỉ có thần linh và thú dữ mới dám sống một mình”.
Trước kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), rừng núi Mỹ Sơn còn nhiều thú hoang, đặc biệt là cọp, nhưng sau đó vì bom đạn nên loài thú dữ này đã bỏ đi hết. Trong cuộc khai quật Mỹ Sơn vào năm 1903, hai nhà khảo cổ học Henri Parmentier và Charles Carpeaux đã ghi chép những gian khó của họ khi tổ chức sinh hoạt hằng ngày tại thung lũng này. Tại đây họ cho dựng một cái lán tranh gọi là “cagna” trên sườn đồi để tạm trú và dành cho khách thỉnh thoảng đến thăm.
Mọi sinh hoạt đều được tổ chức trong cái lán khiêm tốn này, nó được bảo vệ bằng một hàng rào cao bốn mét để đề phòng cọp. Ngày 18.6.1903, Carpeaux ghi trong nhật ký: “Người quản công cho chúng tôi bị cọp bắt tối qua, hồi bảy giờ rưỡi, trong một bụi cây dùng để buộc ngựa. Nghe tiếng động trong rừng, ông ta tưởng rằng có một con nghé bị đi lạc và gặp phải cọp nên bị nó cắn vào cổ và lôi đi”.
Cũng tại Mỹ Sơn, tượng thần Ganesha đứng là một trong những kiệt tác của khu đền tháp được chế tác từ đầu thế kỷ 8. Thể hiện trên pho tượng quý này, thần May mắn và Hạnh phúc mặc một cái thắt lưng có trang trí đầu cọp để chứng tỏ mình là con trai cả của thần Shiva và nữ thần Parvati được sinh ra trong rừng thẳm.
Ngoài Khu đền tháp Mỹ Sơn, hình cọp duy nhất trang trí trên đền tháp Chămpa thuộc ngôi tháp Bắc của nhóm tháp Hòa Lai nổi tiếng ở Ninh Thuận, được dựng vào khoảng nửa đầu thế kỷ 9.
Theo đó, trên vòm cuốn trán tường thể hiện hình tượng một vị nam thần, có thể thuộc hệ phái Shivaism, ngồi uy nghi trên lưng cọp được chạm trên cửa giả bằng gạch phía tây của ngôi đền. Đây là đặc điểm trang trí nổi bật của ngôi đền này, hàm chứa những thông tin liên đới đến tính chất tín ngưỡng đặc thù của nó. Tuy nhiên, cho đến nay nội dung này vẫn chưa được giải mã.