Trên đỉnh đèo Le, bỗng nhớ...
(Xuân Đinh Dậu) - Cuối năm đưa ca sĩ Ánh Tuyết và các bạn từ Sài Gòn về Quế Sơn, vượt đèo Le đi thăm chợ Trung Phước, chúng tôi dừng lại ở một quán lưng đèo để thưởng thức món gà quê độc đáo tại đây. Tôi chợt nhớ nhà báo - nhà thơ Cung Văn - Nguyễn Vạn Hồng từng có hai câu khá độc: “Quê ta có cái đèo Le. Ông bà mình lái là… đè để leo!”
Đây là hai câu đề dẫn trong chuyên mục châm biếm trên tạp chí Đất Quảng từ năm 1988 do tôi đề xuất và mời Cung Văn phụ trách. Đèo Le ngày nay đã được đầu tư thành khu du lịch Suối Mát, đã mất đi nhiều vẻ hoang sơ vốn có. Nhưng với tôi, đó vẫn là một không gian cùng những con người của một quá khứ không xa, bởi gần đây tôi tìm lại được cuốn sổ tay ghi chép nhiều chuyện cũ…
Đèo Le. Ảnh: NGUYỄN TUẤN |
Từ Quán bên đường đến Quán nghèo
Câu chuyện khiến tôi nhớ lại đèo Le không chỉ có vậy. Nó gắn liền với nhiều kỷ niệm cùng các văn nghệ sĩ đất Quảng từ những năm tản cư, kháng chiến chống Pháp. Con đường đất do Công sứ Pháp ở Hội An bán 12 chức Cửu phẩm để xây dựng, nối Đông Phú đến chợ Trung Phước trước năm 1945, tuy có hư hỏng nhiều nơi, nhưng bất ngờ một thời gian dài đã trở thành con đường giao thông quan trọng trong cuộc kháng chiến lẫn giao lưu kinh tế - văn hóa của vùng tây Quế Sơn với đồng bằng, bên cạnh giao thông đường thủy Thu Bồn. Sau này, dân gian vẫn gọi con đường ấy là “đường 12 cửu phẩm!”.
Những năm về làm việc tại Sài Gòn, tôi may mắn gặp giáo sư Huỳnh Lý nhiều lần và được ông kể nhiều chuyện về vùng đất mà sau này ông đã viết nên cuốn chuyện đường rừng “Đi tìm nhà vô địch”. Nhưng liên quan đến đèo Le giai đoạn tản cư và kháng chiến, ông thích thú kể về nhà thơ Khương Hữu Dụng và nhà văn Nguyễn Văn Xuân…
Nhà thơ Khương Hữu Dụng đưa gia đình từ Quảng Huế (Đại Lộc) tản cư lên Trung Phước và chọn “cuộc đất” bên con suối trên đỉnh đèo Le để làm sinh kế độ nhật. Ông đặt bảng hiệu “Quán bên đường” bằng thơ để bán nước, chuối, chè ngọt, bánh kẹo cho khách bộ hành: “Dừng đây, có quán lưng đèo/ Sớm mai Trung Phước, dặm chiều Quế Sơn/ Hỡi ai gối mỏi chân chồn…”. Nghe đâu ông phải mang nội dung bảng quảng cáo này đến mấy cấp của Ủy ban kháng chiến hồi đó mới được… “duyệt”! Nhưng đáng nhớ nhất là cụ Khương ít say sưa kinh doanh mà lại say sưa với thơ, nên nhiều trí thức cán bộ kháng chiến hồi đó lỡ ghé vào quán thì y như bị thơ… ám đến nỗi không dứt ra được. Cụ Huỳnh Lý kể có lần tướng Đàm Quang Trung đi ngựa qua đèo Le cũng được Khương thi sĩ… đãi cho bữa thơ và bình thơ đến nỗi trễ cả việc binh!
Sau khi nhà thơ Khương Hữu Dụng vào nhận công tác ở Bình Định, thì bàn giao mặt bằng ấy cho nhà thơ Nguyễn Đình. Nguyễn Đình đặt lại tên là “Quán nghèo”, vẫn bán những món “truyền thống” cho khách như cụ Khương lúc trước. Nhà thơ Nguyễn Đình không say sưa chuyện bình thơ như người “tiền nhiệm”, nhưng lại có nét đặc sắc riêng. Bên cạnh làm ca dao tuyên truyền như Tế Hanh, ông nghiên cứu ngôn ngữ và đặc biệt… làm thơ về luật “hỏi ngã” trong tiếng Việt. Chẳng hạn, ông viết: “Chị Huyền mang nặng ngã đau. Anh không sắc thuốc hỏi đâu xức vào”. Sau này nhà nghiên cứu tuồng Hoàng Châu Ký kể với tôi rằng, những câu như vậy thuộc loại “thần chú” cho người học Quốc ngữ. Bởi lẽ, trong các từ ghép luyến láy của tiếng Việt như: buồn bã, cằn cỗi, lạnh lẽo, sạch sẽ…, nếu chữ trước là dấu huyền, dấu nặng thì chữ sau phải là dấu ngã; còn chữ trước không dấu hoặc dấu sắc thì chữ sau là dấu hỏi; ví dụ: mát mẻ, lơi lả… Những người thuộc hai câu này chắc chắn sẽ không bao giờ viết sai chính tả. Sau này, ngồi nghe các giáo sư giảng bài ở đại học Văn khoa Sài Gòn, tôi thấy hai câu của Nguyễn Đình vẫn được áp dụng!
Dưới chân đèo Le
Dưới chân đèo Le thuở đó là kể từ đèo đến chợ Trung Phước. Bên cạnh những người dân tản cư, cán bộ kháng chiến và các trí thức từ Hội An, Điện Bàn lên, còn có mặt những văn nghệ sĩ khác, họ đưa gia đình đi tản cư và tham gia công tác… Ở một đoạn khác dưới đèo Le gần đó, nhà văn Nguyễn Văn Xuân có mở một quán hớt tóc. Ông vừa hớt tóc vừa kể chuyện tuồng cổ hoặc sử Tàu như Xuân Thu chiến quốc, Tam quốc diễn nghĩa… rất hấp dẫn. Thành ra, theo lời ông, có hôm ông chỉ “hớt được một hai cái đầu”, nhưng người chờ đến lượt hớt tóc cũng không phiền chi, vì được nghe chuyện hấp dẫn. Ông Xuân vừa kể chuyện vừa dừng dao kéo làm điệu bộ, đến nỗi có người nói vui: “Ông bỏ giùm dao kéo xuống trước khi múa, kẻo… đâm vào mắt vào cổ tôi!”.
Nhà nghiên cứu Hoàng Châu Ký lúc ấy là Bí thư Quế Sơn, Tiên Phước nhưng lại có đầu óc văn nghệ và giao du với nhiều nhà thơ, nhà văn kháng chiến. Những lúc rảnh rỗi, ông cũng hay gặp mặt những người từng là bạn văn, từng làm việc ở tòa soạn Hừng Đông ở Hội An, như: Nhà thơ quần chúng Nguyễn Hữu Phương quê Điện Bàn, lên mở quán Bốn Phương (bốn bề không phên liếp) ở Trung Phước, bán bánh tráng nướng, chuối, đường bát và nước chè xanh. Nhà thơ Khôi Anh - Phạm Văn Kỳ (người mà sau này cái tên trở thành đề bài thơ nổi tiếng của Hồ Thấu viết năm 1949: “Gởi Khôi Anh - Phạm Văn Kỳ”) thích bàn chuyện “đảng Thơ”, rất nghiêm túc trong cuộc sống, trong ăn mặc, dù là làm công tác văn nghệ kháng chiến đầy khó khăn, và làm thơ với ngôn ngữ khá cầu kỳ.
Nhà thơ Vũ Hân tuy tật nguyền và tản cư vào vùng đông Thăng Bình, nhưng vẫn lặn lội lên Trung Phước, qua đèo Le thăm bạn bè văn chương và để được sống cùng không khí kháng chiến. Vũ Hân từng làm việc ở Thường trực Ban biên tập tạp chí Hừng Đông, trước đó làm thơ tình, nhưng với kháng chiến, tuy đi lại khó khăn vì bệnh tật, ông đã viết những câu gân guốc: “Tôi nín lặng nằm nghe men máu rỉ. Cốt nhục lâu mỗi lúc một lung lay. Uất khí không tan, hận khí trĩu chân mày…”. Cũng ở khu vực đèo Le - Trung Phước còn có mặt nhạc sĩ Lan Đài với chiếc đàn guitar - trong những ngày kháng chiến gian khổ phải bán hết áo quần, tư trang chỉ giữ lại cây đàn. Cụ nghệ sĩ tuồng Đội Tảo, tuy lớn tuổi, vẫn đưa các học trò lên Dùi Chiêng và dạy bình dân học vụ. Nơi nào mời, cụ và học trò liền “xung trận”, cho dù không có sân khấu!
Vĩ thanh
Chuyện đèo Le - Trung Phước sau 1945, tôi từng được nghe hai nhà nghiên cứu Huỳnh Lý và Hoàng Châu Ký kể nhiều lần. Nhờ ghi chép và giữ lại, nay mới có dịp sử dụng. Nhưng tôi tâm đắc nhất vẫn là chuyện cụ Huỳnh Thúc Kháng đến Quế Lộc vào thời kỳ đó. Cụ Hoàng Châu Ký kể rằng, năm 1946, trước khi vào Quảng Ngãi để lập Cơ quan đại diện Chính phủ Liên khu 5, cụ Mính Viên đã về quê ở làng Thạnh Bình nghỉ ngơi. Ở đây, cụ đã tranh thủ đi thăm nhiều nơi, trong đó có đến Quế Lộc để thăm bạn cũ là cụ Nguyễn Đình Hiến, người đậu thứ nhì khoa thi hương năm 1900 (người thứ 3 là cụ Phan Châu Trinh) và thăm Ủy ban Việt Minh các địa phương Quế Sơn, Tiên Phước. Cụ Mính Viên lúc đó ví von bằng tiếng Pháp: Điện Bàn là Moscou của Quảng Nam, Duy Xuyên là Nghệ Tĩnh của Quảng Nam. Tiên Phước còn nghèo, thiếu cán bộ, nhưng nhân dân thuần chất. Cán bộ các huyện lên giúp Tiên Phước là rất tốt. “Làm cách mạng không nên có tính địa phương chủ nghĩa!” - cụ nói.
Sau chiến tranh, tôi đã nhiều dịp qua lại đèo Le, giới thiệu nét đẹp, phong cảnh, sản vật của Đại Bường (Bình), Trung Phước, Hòn Kẽm Đá Dừng và cùng các nhà văn xứ Quảng tổ chức cả một tuyến du lịch ngược sông Thu Bồn, đưa bạn bè trong nước và nước ngoài lên Trà Linh, Thạch Bích ngay những năm cuối của thập niên 1980. Lòng cứ nao nao với hai câu thơ thần tình “Lúc lắc đò đưa Tí, Sé, Kẽm/ Gập ghềnh chân bước Râm, Ri, Liêu” của cụ Trần Quý Cáp… Vậy mà, giờ tìm lại được cuốn sổ tay cũ với những ghi chép về đèo Le, Trung Phước gần 70 năm trước, lại dâng tràn nỗi nhớ của cảnh và người của một thời chưa xa…
TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG