Về Bình Nam nghe chuyện hát hò khoan

PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT 21/02/2013 06:03

Cũng như nhiều vùng quê Quảng Nam thời trước, người dân xã Bình Nam (huyện Thăng Bình) rất mê hát hò khoan, và đến nay vẫn còn lưu truyền một số câu chuyện kể khá thú vị.

Chuyện rằng hồi nửa đầu thế kỷ XX, thanh niên Bình Nam thường qua làm quen với nhóm nữ làng Trà Sơn. Trong một đêm hát hò khoan đối đáp nọ, có một cô gái ở Trà Sơn hát câu đố khá “độc”: “Hò… ơi!/ Chớ trai Trà Sơn gánh củi Trà Sơn/ Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt/ Anh đối đặng rày nhật nguyệt giao cho/ Hố hợi là hò khoan…”. Trong tiếng Hán, hai chữ “sơn” viết chồng lên nhau thành ra chữ “xuất”. Cho nên, mới có câu “Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt”. Câu hát đố khó ở chỗ bắt người giải phải tìm ra chữ nào tương tự để đối lại. Đối được rõ ràng không phải là chuyện dễ và đám thanh niên Bình Nam hậm hực ra về, quyết chí “rửa hận”.

Hôm sau, họ tìm đến ông thầy Bảy, thầy dạy chữ Hán trong làng nhờ làm “quân sư”. Tối đó, đám thanh niên Bình Nam thay nhau “cõng” thầy Bảy đến làng Trà Sơn để thầy mách nước. Mấy cô gái kia hát lại câu cũ. Nghe xong, thầy Bảy ghé tai nói nhỏ với đám thanh niên Bình Nam. Nghe xong, một anh đứng lên cất giọng:“Hò… ơi!/ Gái ba nguyệt dạo chơi ba nguyệt/ Nguyệt nguyệt bằng quỷ khốc thần sầu/ Anh mà đối đặng thì thiếp làm dâu nhà chàng/ Hố hợi là hò khoan...”. Câu hát đối quá hay. Anh thanh niên hát vừa xong, mọi người vỗ tay rầm rầm. Để đối câu “Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt”, ông thầy Bảy liền ứng câu “Nguyệt nguyệt bằng quỷ khốc thần sầu”. Trong chữ Hán, hai chữ “nguyệt” viết liền kề nhau thành ra chữ “bằng”. Bằng ở đây có nghĩa là bằng hữu. Câu hát đối quá chỉnh, đám trai làng được phen hỉ hả.

Lại có chuyện kể, ở làng nọ, khi đám thanh niên qua hát hò khoan đối đáp với nhóm nữ làng bên lại trêu ghẹo chị em thái quá, một cô gái muốn “dạy” cho đám thanh niên bài học mới cất tiếng hát: “Hò… ơi!/ Thân em như bộ lư đồng đỏ bên Tàu/ Chở qua Nam Việt lựa nhà giàu bán chơi. Hố hợi là hò khoan...”. Xưa, nồi đồng, mâm đồng và đặc biệt lư đồng, nhất là lư đồng bên Tàu đem sang rất quý. Nhà giàu có, dư ăn dư để mới sắm nổi. Mượn lư đồng, lại là lư đồng bên Tàu, ý người nữ ở đây đề cao mình, cho mình cao sang, đám trai làng không dễ gì “tán tỉnh” nổi. May mà trong số đó, có một anh đối lại được: “Hò… ơi!/ Thân anh như thằng ăn trộm cắt rào/ Đụng lê anh cũng bẻ gặp đào anh cũng quơ/ Anh đánh ngạch vô thấu bàn thờ/ Trước anh quơ đồ lặt vặt sau anh rờ bộ lư/ Hố hợi là hò khoan...”.

Một câu chuyện khác cũng không kém phần lý thú. Chuyện rằng thấy đám trai làng bên cứ qua tán hoài, nhóm nữ làng nọ không ưa, liền mượn chuyện hát đối đáp để “tống khứ” mấy anh này đi. Vậy là một cô cất giọng hát: “Hò… ơi!/ Anh ra làm chi mỗi tháng mỗi ra/ Anh ra một lượt cực em ba bốn ngày/ Hố hợi là hò khoan”. Chúng ta cũng biết, chị em mỗi tháng có “một kỳ khó ở”. Chuyện hoàn toàn có thực. Nhưng, cái “độc” ở đây là mượn sự việc có thật đó để ám chỉ mấy anh đến chơi làm phiền quá. Quả thật, nhóm nữ làng nọ không phải tay vừa. Tưởng đám thanh niên thua một bàn trắng. Nhưng không, bỗng có một thanh niên đứng lên, dõng dạc đối lại: “Hò… ơi!/ Tam Kỳ, Đại Lộc, Phú Yên, Khánh Hòa/ Chốn kinh kỳ là chốn nhạc gia qua ở thường/ Không đi thì ổng nhớ bả thương/ Còn phận anh là rể xa đường quản chi/ Đi thời phải sắm lễ nghi/ Có lần ổng trả có kỳ ổng ăn luôn/ Không đi cha ổng nghĩ mẹ ổng buồn/ Ổng có ra thăm cháu em nhớ chống chiếc xuồng cho cha vô/ Cha vô năm ba bữa cha buồn/ Ổng có trở về nhạc mẫu em nhớ chống chiếc xuồng cho ổng ra/ Hố hợi là hò khoan”.

Đến nước này, nhóm nữ cũng đành chào thua.

PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT

PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT