Con trâu tế
Có câu chuyện nhiệm màu, rằng năm Sửu, không rõ là năm Sửu nào, làng bị dịch tả, người chết như rạ. Những người còn sống sót lập đàn tế trời, cầu mong cho cơn dịch tả mau qua, làng sẽ tế lệ cứ năm năm hiến một con trâu!
Lạ thay, ít hôm sau dịch bệnh bỗng tan. Từ đó, làng có lệ cứ năm năm phải tế một con trâu. Trâu tế phải là trâu mạnh khỏe, được chăm sóc kỹ lưỡng, không dị tật, không được giao phối trước khi tế thần. Để đảm bảo trâu tế phải sạch sẽ, không phật ý thành hoàng, làng cắt cử ra một hộ nhận chăm sóc trâu, vì thế mà nhà tôi nhiều đời mưu sinh bằng nghề gia truyền, nuôi trâu tế.
Cứ mỗi con trâu tế, nhà tôi sẽ được làng đong cho mười giạ lúa trả công. So với những nghề khác, thì nghề nuôi trâu tế có huê lợi khá hơn nhiều. Tuy nhiên không phải ai cũng nuôi trâu tế được. Trâu tế là loài được chọn lọc kỹ từ bầy trâu len của làng, chọn khi nó vừa mới thôi bú mẹ. Những người có nhiều kinh nghiệm đứng ra chọn trâu, dựa vào số lượng râu, màu sắc của lưỡi, hình dáng của đuôi và móng, phải đạt được tướng phú, để tế thần, làng mới được trúng mùa và thịnh phát.
Ngoài những kinh nghiệm mang tính bí quyết gia truyền, gia đình tôi còn truyền đời một cây “xà lút” để khiển trâu. Đó là một cây gỗ tròn, dài độ năm tấc, cán to cỡ cán dao, nhỏ dần về phía đầu. Cán xà lút được cuộn quanh bằng một miếng da cọp, đoạn da ngay miệng, còn vương những sợi ria. Mũi xà lút được gắn cái nanh cọp nhọn hoắt. Chỉ cần giương cây xà lút lên là trâu nghe lệnh răm rắp.
Năm đó trâu làng đẻ được con nghé cò, toàn thân nó mang màu trắng bạch tạng. Làng nghĩ đó là điềm chẳng lành nên định đưa trâu xuống chùa để chùa nuôi và nghe kinh kệ. Nhưng những người coi trâu bảo, trâu tuy bạch tạng, nhưng mang đầy đủ tướng quý của linh ngưu, trong năm năm để kiếm một con có tướng tinh như vậy quả là không phải dễ. Vì vậy mà con nghé cò được bàn giao cho cha tôi nuôi, đợi khi nào làng tìm được con trâu khác có tướng tốt hơn thì thịt con nghé cò này. Còn không, thì sẽ đem nó tế thần.
Cha dắt nghé cò về nhà, khi nó được vài tháng tuổi. Ông bảo rằng, con trâu tế này có tính điềm đạm khác thường; đồ rằng nó không được thành hoàng chọn, nên hiền từ và không mang thần khí, cũng chẳng hung hăng. Có mấy lần cha vót tre chuẩn bị xỏ mũi trâu, nhưng nó lại nhủi nhủi mặt vào rơm, đôi mắt rỉ hai dòng nước chẳng khác gì con người đang khóc. Cha tôi thấy vậy cảm thương, nên thôi; buộc dây quanh cổ và quanh nách trâu, cầm tai con trâu ông nói, tao không xỏ mũi, thì mày ráng mà ngoan, chớ để tao lấy xà lút đâm thì mầy toi mạng. Con trâu như hiểu tiếng người, nó gật gù nhùi nhủi vào ông như nũng nịu.
Bây giờ nó đã là con trâu tế hai tuổi. Bốn năm từ ngày tế lệ trôi qua, làng vẫn chưa tìm được con trâu nào thay thế nó được. Năm đó, mùa nước bỗng về dâng cao mấp mé gò trâu. Ông chánh bái đến nhà bảo cha tôi coi tìm “tằng khạo” (người đứng đầu nhóm chăn trâu) mà mang con trâu tế đi theo len về miền núi để tránh lũ. Nước dâng kiểu vầy rơm làng dựa lại cho trâu ăn vài bữa cũng sạch trơn. Cha con tôi dắt trâu lên ghe chở ra đầu kinh đào, tôi men theo kinh đào đi nhập bầy len về phía núi.
Mùa nước kéo dài đến tận tháng Mười vẫn chưa có dấu hiệu rút, trong khi chỉ vài tuần nữa thôi là đến lệ tế trâu. Ông chánh bái rầu nói, chắc thành hoàng hờn nên giáng họa cho làng thất bát triền miên, nước ngập lâu kiểu vầy, đến khi rút thể nào cũng có dịch bệnh. Làng bắt đầu lo, ngôi đình trên mảnh đất cao ráo cũng bị ngập cao mấy tấc. Nền đình lót gạch bông, bà từ lau chùi ngày mấy đợt, láng bóng. Chỉ mấy hôm đã thấy phù sa đóng đầy, kiểu vầy nước rút rồi thu dọn mệt xỉu cũng không bóng lại như cũ được. Thành hoàng ngồi trang nghiêm nơi chánh điện nhìn ra sân khấu vắng tanh, mùa tế lệ sắp gần, mà nước cứ rượt đuổi nhau trong đình như trẻ con đùa giỡn.
Cha con tôi vẫn còn theo bầy trâu ở miền núi cao, nhìn theo dấu ngấn con nước ngoài dòng kinh, biết rằng mùa nước ở quê mình vẫn còn cao. Đem con trâu về thể nào cũng chết đói trước khi đem nó đi tế. Thấy vậy cha tôi nán lại với bầy, mặc dù hũ gạo mang theo bắt đầu sắp đụng đáy.
Một bữa có trăng, mẻ un trâu nghi ngút khói. Không biết mắc chứng gì mà con trâu tế cứ lộc cộc đôi chân miết cả đêm. Cha tôi vén mùng ra thăm, thấy khói vầy làm gì có muỗi mòng mà nó quậy chân như vậy. Chui vô mùng không lâu, con trâu tế lại rống lên. Những con trâu khác nằm im ru không một tiếng nào đáp trả. Nó lại rống những tiếng thống thiết. Từ nhỏ đến nay, có bao giờ nó rống như vậy đâu, sao nay lại lạ kỳ như vậy, chắc nó đau bụng. Tôi thức tìm lá thuốc cho nó ăn, nhưng nó không chịu, cứ lộc cộc chân hoài không thôi.
Nửa đêm thì từ phía bờ bên kia núi, phía biên giới có tiếng động, rồi tiếng pháo rền vang nổ về phía ngôi làng dưới chân núi, cách chỗ chúng tôi dừng chân cuộc trâu không xa. Những con trâu nghe pháo nổ hoảng hốt rống lên, lúc ấy thì con trâu tế vẫn đứng yên và im lặng. Đôi mắt nó bỗng đỏ ngầu như lửa đốt, giậm chân không thôi. Ít phút sau pháo lại nối tiếp đội về phía cánh đồng chân núi. Bầy trâu bứt đây táo tác chạy qua kinh. Tằng khạo đánh trống ra hiệu chạy theo hướng con trâu đầu đàn. Cha con tôi nhảy lên lưng trâu tế chạy theo. Nhưng không hiểu sao càng chạy thì càng thấy tiếng pháo gần hơn. Không lâu sau thì pháo dứt, nhìn lại phía sau lưng vẫn thấy những đám cháy ngun ngút phía cuối trời. Bầy trâu dừng chân lại, con trâu tế vẫn không thôi lộc cộc đôi chân, trong khi những con trâu khác đứng yên nhìn dáo dác như vẫn chưa hoàn hồn về kịp.
Pháo lại tiếp tục nổ giòn tan, lúc này thì pháo gần kề bên, có con trâu trúng pháo, máu văng tung tóe. Tôi nghe mùi máu, mùi mằn mặn xộc lên mũi mình. Những con trâu khác nghe pháo, nghe mùi máu hoảng hốt chạy tứ tán. Có con bị đúng mìn nổ văng lên rồi chỏng gọng giơ bốn chân lên trời giãy chết. Con trâu tế lúc này bỗng chạy thành vòng tròn quanh bầy trâu len. Nó như con trâu điên, vừa chạy vừa hùng hục nơi miệng như hăm dọa. Cha và tôi đứng nhìn mếu máo, trong ánh trăng, tôi gọi trâu tế ơi, trâu tế ơi. Nhưng nó vẫn không nghe, cha tôi chạy theo giương cây xà lút, nó vẫn không sợ. Nó cứ chạy thành vòng tròn, vừa chạy vừa hùng hục thở. Những con trâu khác bỗng dưng rụt lại đứng yên. Tiếng pháo không rộ nữa, cũng không có tiếng mìn nào. Rồi con trâu dừng lại, nó nhìn về phía xa rồi đâm đầu như chết, chạy về phía đó. Những tiếng người lô xô nổi lên, hồi lâu là tiếng súng. Bầy trâu hốt hoảng chạy ngược về phía con kinh rồi bơi qua kinh chạy về chân núi. Cha con tôi chạy theo bầy trâu. Cha vừa cầm tay tôi vừa lôi chạy. Tôi nhìn lại phía sau lưng mình gọi khan cả cổ… Tế ơi! Tế ơi!
Hôm sau, kiểm bầy, mất hết tám con trâu. Đến xế trưa thì có sáu con trở về, hai con mất là con trâu tế và con chết mìn. Người dân chạy giặc ngang qua nói, giặc tràn qua biên giới đánh làng, chúng nó giết người chết la liệt. Cha tôi và tằng khạo vốn có máu me giang hồ, nên quyết không chạy, ở lại đây coi chúng làm gì. Bầy trâu neo lại gần chục bữa, nhờ mớ cỏ sau sân chùa mà sống được đến nay. Thấy phía làng đã yên, cha tôi và mấy chú tằng khạo mò lên nắm tình hình. Ông đi đến xế chiều mới về, trên tay cha tôi là cặp sừng màu trắng của con trâu tế. Lúc đó tôi biết, nó đã bỏ tôi đi thật rồi. Nó đã cứu mạng chúng tôi, cứu mạng bầy trâu giữa bãi mìn trong cơn loạn lạc.
Mấy hôm sau chúng tôi lục đục đánh trâu về làng. Người ta đón ở đầu vàm, hỏi han đủ điều. Ông chánh bái nói, con trâu tế đã làm xong sứ mệnh của nó với làng. Ông nghẹn ngào xúc động nhìn bầy trâu còn lại và nói: “con trâu suốt đời nó sống nghĩa tình, hy sinh hết mình với làng, lẽ nào cứ năm năm lại đập đầu tế mạng một con?”. Cha tôi nhìn cặp sừng trâu trên chiếc cộ, tôi biết ông đang nhớ trâu tế. Nhớ những đêm rằm trong cuộc đi len, cha thường nói với tôi, để qua mùa len, cha về xin ông chánh bái gieo keo, xin thành hoàng đổi con trâu với trăm giạ lúa, chắc là được đó Điền.
Nỗi niềm của những người dân sống dựa vào sự màu nhiệm và quyền sinh sát trong tay của thành hoàng và cũng là nỗi niềm của người nuôi trâu tế chúng tôi, đã được ông chánh bái thấu hiểu. Ông quỳ trước ban thờ nghi ngút khói hương, gieo keo xin thành hoàng bỏ qua năm nay không tế lệ.
Ngôi đình nước rút còn đầy bùn đất. Hai thẻ tre trơi trên nền gạch đóng lớp lớp phù sa. Thành hoàng cho quẻ âm dương, hiển thị ý ưng lòng không phải tế trâu. Cha tôi nói, “hay xin luôn cho những năm sau, chứ tôi già yếu rồi, thằng Điền không theo nghề được nữa”. Keo thả lần nữa thành hoàng cũng ưng ý cho keo.
Cặp sừng của con trâu tế được mang vào thờ phía sau vách đình, chung bàn thờ với chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn. Không hiểu sao những mùa lễ lệ sau, mỗi khi ra sau vách đình nhìn hai cái sừng trắng dính vào miếng xương sọ của trâu tế là tôi lại nghe tiếng rống của nó phía khơi xa, dội vào vách núi đá, vào lòng tôi nỗi nhớ khôn nguôi về loài vật sống chí tình chí nghĩa…