Một thời trận mạc
Lần nào cũng vậy, hễ đến ngày giỗ Khởi là Thường về quê, nhân tiện anh ghé thăm mẹ. Rẽ vô hương lộ là đến Lung Mả Đôi, ở đấy ngày xưa có những đám ruộng tốt nhất làng Đại. Nay thì nhà cửa san sát, cái nào cái nấy cũng tường gạch, bê tông vững chắc, bề thế; người và xe đi lại nhộn nhịp, đông vui hẳn lên. Hình ảnh làng quê yên ả, đằm thắm xưa kia hình như chỉ còn trong ký ức của bao người. Thường cho xe chạy một mạch đến nhà ông giáo Lãm - cha Khởi, mà cũng là thầy giáo dạy anh hồi học vỡ lòng ở trường làng.
Khởi là con thứ hai của ông giáo Lãm, hắn thua Thường tới bốn tuổi. Anh học cùng lớp với Sương, chị ruột hắn. Anh và Sương chơi thân với nhau đến nỗi lũ bạn trong xóm hay cắp đôi hai đứa. Sau giải phóng, Sương thi vào trường Trung cấp Sư phạm tỉnh. Mãn khóa, đi làm cô giáo ở một huyện xa. Thường học ngành xây dựng, rồi rày đây mai đó theo những công trình trên khắp mọi miền đất nước. Tuy môi trường làm việc của hai người có khác nhau nhưng tình bạn giữa họ vẫn đằm thắm. Họ thường xuyên liên lạc qua những trang thư hoặc hẹn hò gặp nhau ở quê vào những ngày lễ tết. Mối tình thầm kín này chỉ có Khởi là biết rõ nhất. Hắn cũng là đứa “kín miệng như thóc” nên ông giáo Lãm và cả lũ bạn tọc mạch, chẳng ai có thể phát hiện ra tình ý của hai người.
Thường ở công trường và nhập ngũ vào một ngày đầu xuân 1979. Lúc bấy giờ tình hình chiến sự ở biên giới Tây Nam đang ác liệt. Anh chỉ kịp báo tin cho mẹ và các em bằng một lá thư viết vội rồi lên đường. Hai năm sau, anh gặp Khởi trong một lần nhận quân bổ sung. Anh em cùng làng gặp nhau, chẳng giấy bút nào tả xiết nỗi vui mừng, cảm động. Khởi kể cho anh nghe mọi chuyện ở quê nhà. Anh vui mừng biết được lúa ở làng mình trúng liên tục hai vụ liền, mỗi sào thu hoạch được cả hơn mười hai bao lúa khô. Vậy là mẹ và mấy đứa em sẽ đỡ vất vả vào những ngày giáp hạt. Người ta đã dời mồ mả vào nghĩa địa trong núi hóc Nhà Gà. Khu Mả Đống ở cuối làng bây chừ đã thành khu dân cư đông đúc. Thường nhớ mẹ, nhớ em quá! Rồi Khởi kể cho anh biết chuyện ngày chị hắn lên xe hoa. Trước bữa rước dâu, Khởi hỏi chị mình: “Răng chị không đợi anh Thường? Em biết anh ấy yêu chị lắm mà!”. Sương nhìn xa xăm, giọng buồn buồn: “Chị thương anh ấy hơn em tưởng nữa kia. Nhưng chiến tranh, biết bao giờ anh ấy mới trở về, trong khi tuổi xuân con gái lại quá ngắn em à!”. Sương lấy chồng được vài tháng thì Khởi đi bộ đội.
Chiến dịch mùa khô 1984. Trung đoàn của Thường được cấp trên phân công phối hợp với đơn vị bạn tác chiến ở địa bàn Ngã Ba Biên, nơi tàn quân Pol Pot ẩn náu. Đường hành quân dài ra hàng trăm cây số. Những lối mòn gập ghềnh đèo dốc, những con suối khô khốc, cháy nắng. Đi suốt mười ngày đêm, bàn chân người lính nào cũng phồng rộp, bọng nước, rát bỏng. Cái đêm vừa đến điểm tập kết, Thường lên cơn sốt, Khởi phải mang luôn cả đồ đạc, lương thực và vũ khí giúp anh. Đào được một công sự, Khởi ra hiệu cho Thường xuống nấp. Sau đó, Khởi tiếp tục đào cái khác cho mình. Uống liều thuốc của y tá đại đội đưa cho, khuya ấy mồ hôi Thường toát ra như tắm. Anh thấy mình khỏe ra, cơn sốt biến đi lúc nào chẳng biết.
Sau nửa ngày nổ súng, trung đoàn của Thường đã làm chủ được vài vị trí theo phương án tác chiến. Chiều hôm ấy, trước khi cùng tiểu đội chuyển một số thương binh về trạm phẫu tiền phương, đại đội anh được lệnh cắt một nửa quân số chi viện cho cánh quân của tiểu đoàn bạn đang chốt chặn chờ đánh phản kích. Trong khói đạn cay xè, nhập nhòe ánh chiều, Khởi bò lại sát công sự của anh và nói: “Em đi lên chốt, anh ở lại cẩn thận. Còn gạo sấy cho em mấy gói”. Miệng nói, tay thò vào túi ba lô của Thường đang đặt trên thành công sự, Khởi lấy hai gói nhét vào tạc đạn sau lưng. Thường bảo: “Cẩn thận nghe mi!”. Khởi mỉm cười tỉnh khô, tay chỉ vào phía ngực nơi có cái dây chuyền bằng sắt tây và nói: “Anh yên tâm, thằng em có cái bùa hộ mệnh này, đạn nó phải tránh xa...”. Rồi Khởi xốc súng chạy về phía tiếng nổ và những ánh chớp nhùng nhằng. Cái bóng thoắt ẩn thoắt hiện của Khởi in đậm vào khoảng trống vàng ươm của buổi chiều trận mạc. Thường không thể ngờ được rằng lời nói, ánh mắt của Khởi nhìn anh chiều hôm đó là cái nhìn lần cuối.
Thường và tiểu đội xuyên rừng đi suốt đêm. Hôm sau, quay trở về đơn vị thì được tin thằng em cùng làng của mình hy sinh. Một quả đạn cối đã nổ cách Khởi khoảng bốn mét khi cánh quân chi viện của đại đội vừa vào vị trí tập kết. Thi thể của Khởi, đồng đội đã chuyển về trên cán thương và đang đặt ở bên kia con suối. Thường không tin đó là sự thật nhưng vẫn chạy thật nhanh về phía ấy...
Dưới cánh rừng biên giới buổi sáng sớm, trong khoảng không gian yên ắng hiếm hoi đến rợn người giữa hai trận đánh, Khởi nằm đó, trên chiếc võng quân trang đã nhàu nát. Thân thể Khởi hằn lên nhiều vết chém do mảnh đạn pháo đêm qua, máu tím bầm. Dòng nhựa cây ứa ra chảy dài như những giọt nước mắt mới vừa khô cứng lại. Khởi nằm như đang ngủ. Đôi mắt nhắm hờ, khuôn mặt trắng ra vì mất nhiều máu, nhưng Thường lại cảm thấy nó đẹp như thiên thần. Cạnh đầu võng đặt cái tạc đạn của Khởi. Trong ấy, hai gói gạo sấy nằm chỏng chơ vô cảm. Thường chạy đến ôm chầm lấy người đồng đội. Chiếc võng run bần bật. Thường khóc. Không, anh chỉ hơi choáng và hụt hẫng khi mọi chuyện đến với anh thật quá bất ngờ. Khởi chết thật rồi ư? Ánh mắt, lời nói trước lúc chia tay chiều qua như vẫn còn vọng bên tai anh, như Khởi vẫn đang trước mắt anh kia mà! Chẳng biết trước khi buông tay rơi về cõi hư vô, Khởi có còn kịp nhớ về cái làng nhỏ thân thương hiền hòa bên con sông Cái nơi quê nhà xa tắp. Nơi ấy, có những người thân của Khởi và của anh; có những kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu diệu kỳ. Thường cố nén cảm xúc để không khóc nhưng nước mắt cứ giàn giụa. Anh sờ nắn khắp cái thân thể đã lạnh cóng của Khởi như muốn níu kéo một hình ảnh quý giá vừa vụt khỏi tầm tay mình. Bàn tay anh run rẩy lần trên vai, trên ngực, trên những vết thương mà dấu máu đã khô cứng. Vô tình tay Thường chạm vào chiếc nanh heo rừng, cái dây chuyền bằng sắt tây. Anh run run mở nó ra rồi cầm trên tay, miệng lẩm bẩm: “Khởi ơi! Anh sẽ giữ nó đến ngày trở về và trả lại cho thầy, cho gia đình em!”. Tối hôm đó, thi thể Khởi được chuyển đến an táng ở một nghĩa trang gần biên giới, còn đơn vị anh hơn mười lăm ngày sau mới rút về hậu cứ.
*
* *
Thường vào nghĩa trang liệt sĩ viếng mộ Khởi trên ngọn đồi thông lộng gió, trong ánh nắng vàng vọt của buổi chiều quê. Ngồi xuống bên hàng bia mộ thẳng tắp, anh bật diêm châm bó hương mang theo. Gió chiều thổi mạnh. Tắt, đỏ mấy lần bó hương trên tay anh mới bén lửa.
- Thường chưa về dưới kia à?
Nghe tiếng ai hỏi mình, anh quay lại nhìn và không khỏi ngạc nhiên: “Ủa, Sương! Sương cũng… cũng đến...”. Sương đặt bó hoa huệ trên mộ Khởi: “Thôi Sương về đây. Sợ trời tối họ không đưa đò. Thường về sau, nghe!”.
Nhìn bóng cô bạn gái đổ xuống chân đồi giữa chiều bảng lảng, Thường nghe lòng mình dâng lên nỗi buồn man mác về một thời trận mạc. Dòng suy nghĩ đang chảy trong anh miên man về lẽ sinh ly tử biệt của đời người. Bỗng có tiếng cu gáy râm ran trên ngọn cây thông trước mặt xua tan sự yên ắng, tĩnh mịch của buổi chiều quê...
NGUYỄN HẢI TRIỀU