Phố vàng mấy độ
(QNO) - Có dịp công tác tại Tam Kỳ, đúng vào mùa lễ hội hoa sưa, lòng luyến lưu cái màu vàng tươi như màu nắng tỏa ra từ đôi dòng chữ mà hôm ấy người ký tặng vào quyển thơ “Xa xăm gõ cửa, gặp em tại thành phố sưa vàng”… Hóa ra, hoa sưa đã nối dài cuộc gặp gỡ.
Cuộc đời con người có bao nhiêu chuyến đi, làm sao nhớ hết những con đường mà đôi chân đã lần bước. Đến Tam Kỳ bao giờ tôi cũng vội, nhớ ly cà phê chưa ngẫm kịp vị, câu chuyện chưa bắt đầu đã vội vàng “thôi rứa hỉ” cho kịp chuyến xe.
Mới ngày nào Tam Kỳ là nơi tôi không nhớ nổi một con đường, thế mà, chợt vì cánh hoa sưa, lòng muốn kết thân cùng phố bằng một niềm tin cậy. Tại điểm giao giữa xuân sang hạ, sưa lại vào mùa như đôi lứa giữ cho nhau lời hẹn.
Thường sau những ngày mưa trở trời, sự hiện diện của màu vàng thân thuộc của sưa khiến tôi bình tâm rằng mọi thứ đã trở lại bình thường. Hàng sưa trải dài bung nở như tấm thảm vàng, tô viền cho dòng sông vắt qua phố nhỏ.
Không loang loáng xanh rêu như bức tường phố Hội, không ảo huyền như tháp Chăm Mỹ Sơn, "thủ phủ" sưa vàng Tam Kỳ là giấc mơ có thực, rất thực của khách vãng lai, của những bước chân tứ xứ và đương nhiên là của cả người bản địa.
Dòng người “chảy” đi tìm con đường công danh, hành trình khắc tên mình giữa muôn trùng ước vọng như cách những chùm hoa nhỏ khoe sắc giữa những chiếc lá xanh. Còn thành phố trẻ trung này, tưởng chừng hóa “không màu” nằm ở một vùng xa xôi, bỗng bừng dậy một vùng trời màu nắng mới, giòn tan đầy hứa hẹn. Cội hoa vàng khiến người và phố phủi đi lớp bụi cũ kĩ để không chìm vào thăm thẳm lãng quên.
Và thứ tôi nhớ về phố từ đây sẽ là những - cảm - giác. Mùi nắng, mùi hoa tinh nguyên hòa quyện, khiến bước chân trở về cứ mãi vấn vương tự hỏi: tôi “nhớ người” hay “nhớ hương”?
Đi trong sưa vàng không khiến lòng khắc khoải đợi chờ như đi giữa con đường bằng lăng tím, không sực nức nồng nàn mùi hoa sữa cùng màu trắng vô ưu. Đi trong sưa, đáy mắt người nhuộm đầy một thuở vàng son để thức dậy bao nhiệt thành, nông nổi.
Nhưng trong sắc vàng ấy, thành phố là một người trẻ biết suy tư. Con nắng cuối xuân dịu dàng tỏa xuống những hàng cây qua bao mùa thay lá ấy sẽ níu giữ ký ức của một vùng văn hóa, làm nên bản sắc cho “phố mới” nhẹ nhàng hòa vào giấc mộng “long bào”.
Và phải không nhỉ, cái đẹp của sưa chính là cái ý vị khi hàng cây trầm ngâm “đứng tuổi” lại nở ra những chùm hoa rất trẻ, rất thơ ngây?
Tam Kỳ không phải là thành phố của khói bụi inh ỏi tắc đường, luôn có một khoảng trong veo nơi bầu trời rộng hơn bao giờ hết, nơi nuôi ánh nhìn của cô bé tuổi tóc mây ngơ ngẩn ngắm hoa, để rồi đến “một ngày nào cho tôi gặp lại em”, tóc đã phong sương, mỗi độ sưa về luyến nhớ “thì thiếu nữ”. Sưa vàng ơi, ngươi chưng cất bao lâu để màu vàng trở thành ký ức?
Có lần cũng vì mải ngắm một điều gì đó xa xăm mà lỡ mất tiếng gọi của bác phụ xe: “Cô ơi, lên nhanh kẻo lỡ chuyến xe cuối ngày”. Chợt nghĩ trong đời đã bao lần lỡ mất chuyến xe trở về quê, trở về thơ ấu.
Thuở ấy, ngoài hai màu trắng - đen còn có màu vàng rưng rức của những buổi trưa không ngủ, trốn mẹ ra nghịch dưới gốc cây. Cái sân lúa vàng ươm sau ngày gặt, tấm áo nàng vàng cả một trang thơ. Nay tôi bước lên chuyến xe xa xăm nào đó mà hoa sưa cầm lái đưa đường.
Nhưng đó là một chuyến xe ngắn ngủi, tôi không đủ “chậm” để “trả phí” về tuổi thơ. Mùa sưa choán đầy phố rồi cũng thoắt rời đi, tôi tần ngần đứng đó như người chưa gặp nói lời giã từ mối tình thời hoa mộng.
Cánh sưa li ti, rơi lất phất như hoài xuân mà hóa mưa ngâu, rồi cánh hoa đắp đầy con đường bằng niềm bi cảm. Chợt hiểu vì sao người ở xứ sở anh đào xa xót với bài tanka: “Anh đào ơi/ nhan sắc phai rồi/ mưa trên đời tôi” (Omachi); để thấy lòng lại bâng khuâng trở về với dòng thư tình Trịnh gửi nàng Dao Ánh: “Có tuổi nào giữ “cánh hoa vàng” trong tay mà bâng khuâng”.
Chợt thổn thức nhớ Phạm Thiên Thư, ước được nhỏ nhắn an nhiên, mặc vô thường như chùm hoa sưa dệt người xưa áo vàng thuở nọ: “Người tình nho nhỏ/ nhỏ mãi trong ta/ như chùm hạ hoa”…
Rồi sưa sẽ chìm vào giấc mộng mây ngàn, nhường màu vàng cho những ngọn đèn đường thức cùng đêm. Ngọn đèn đi cùng bước chân người mệt nhoài sau bộn bề mưu sinh, vô thanh cùng người lặng đón chút yên ắng của thành phố - thành phố ngày - chạy theo bóng người, đêm - về tìm bắt bóng mình.
Quảng trường đêm ấy mờ ảo hư - thực, tôi theo chân người đi tìm lại xa xưa. Tôi sẽ ngồi dưới bóng cây, nơi tôi gọi là đẹp nhất khi ngắm nhìn hồn phố. Tôi tìm trong mắt người khoảng thẳm sâu, nghe “Đêm thấy ta là thác đổ”, thác đổ như xác hoa đã trôi về vùng thương nhớ. Ghé ngang phố, đời tôi có cánh hoa sưa vừa qua, phố thật gần mà cứ ngỡ phố xa...
Một chiều chơm chớm hạ, người đem áo ra phơi, đem lòng ra hong để vơi đi nhàu nhĩ. Nghe hồi âm từ Tam Kỳ rằng con đường Bạch Đằng ven sông đã trở về với màu xanh thăm thẳm, viết vội đôi dòng khép lại lá thư tự gửi cho mình: “Hẹn gặp lại người vào mấy độ vàng sưa”…