Lục bát... kiểu Quảng Nam
Xin được lưu ý là những câu trích dẫn trong bài này được hiểu ở dạng vè chứ không phải thơ. Nhưng dù là vè hay thơ thì với cái cách gieo vần của người Quảng Nam đối với thể lục bát này, đảm bảo rằng không “đụng hàng” ở bất cứ đâu.
Với cách phát âm rất đặc thù của người Quảng, nhiều khi các đài truyền hình, nếu phát sóng toàn quốc họ phải chạy phụ đề bên dưới mỗi khi trích lời nhân vật thì dân cả nước mới hiểu người Quảng Nam (và cả Quảng Ngãi) đang nói những gì. Âm “ao” được biến thành “ô”. Gạo thành “gộ”, cháo ra “chố”, bao thành “bô” là vậy. Có giai thoại kể rằng, một anh nọ là dân Quảng Nam làm “quan to” ở triều đình, khi về phát chẩn cho dân làng mình, anh ta phải xài hai thứ tiếng, một là tiếng Việt chuẩn, hai là tiếng Quảng Nam. Chứ nếu anh ta mà lỡ quên “tiếng Quảng”, rất dễ bị dân làng “chửi” rằng thằng nớ mới ra làm quan chưa ăn hết “bô gộ” (bao gạo) mà đã giả giọng. Anh ta phải nói thế này: “Kính thưa đồng bào/ đồng bồ, mang bao/ mang bô ra trụ sở ủy ban để nhận gạo/ nhận gộ”. Một câu rất đặc trưng mà người Quảng Nam ai cũng thuộc mỗi khi giễu nhại, thể loại lục bát hẳn hoi: “Mỳ tôm anh Tốm Quảng Nôm/ Khi mô đói bụng vô lồm một tô”. Đảm bảo người ở miền Bắc mà ít giao du với người các tỉnh phía nam, khi nghe đọc câu này, sẽ bó tay toàn tập. Nhưng hai câu lục bát trên, chữ “Nôm” trong câu 6 và chữ “lồm” trong câu 8, gieo vần như thế là chuẩn, dù người “ngoài Quảng Nam” khi nghe, họ chẳng hiểu gì. Câu này là do phát âm không chuẩn chứ không phải gieo vần sai.
Còn câu này mới là lục bát theo kiểu Quảng Nam: “Chú Năm đến gặp ông Đồ/ Hỏi rằng cứu nước cứu đồng bồ mần răng?”. (Xin mở ngoặc chỗ này: có lẽ hai từ “ông Đồ” được tác giả khuyết danh nói chệch vì nếu nói đúng thì sợ phạm húy chăng?). Trở lại với cách gieo vần lục bát theo kiểu Quảng Nam ở hai câu trên đây. Ai cũng biết, một câu lục bát được gọi là “chuẩn”, ngoài tiết tấu, nhịp điệu, thanh âm…, một nguyên tắc bất di bất dịch (là nói lục bát thông thường chứ không tính lục bát biến thể) thì chữ thứ 6 của câu bát (tám) phải gieo vần chuẩn với chữ thứ 6 của câu lục (sáu). Đã là ca dao thì nguyên tắc này càng phải chuẩn chứ không thể gieo vần theo kiểu “phiên phiến” được. Vì vậy, hai câu trên nếu viết đúng chính tả (“đồng bào” chứ không phải “đồng bồ”) thì câu lục bát ấy sai vần. Câu lục “ông Đồ”, gieo xuống câu bát “đồng bào” là trật vần nhưng vì dân Quảng, như đã dẫn chứng phần trên, “đồng bào” đọc thành “đồng bồ” nên nghe thuận tai là vậy.
Một câu khác, tương tự: “Dân ta phải biết gúc-gồ/ Chỗ nào không biết thì vồ mà tra”. Lẽ ra câu trên phải viết thế này mới chuẩn: “Dân ta phải biết gúc-gồ/ Chỗ nào không biết thì vào mà tra”. Nhưng người Quảng, “vào” với “vồ” phát âm như nhau!
Tôi hỏi một ông bạn là nhà thơ người Quảng Nam: “Người Quảng gieo vần như vậy có đúng không?”. Ông bạn cãi ngay: “Rứa mới gọi là “bục bát Quảng Nôm chớ”. Rồi tiếp: “Như dân Bình Định, họ gieo vần lục bát như ri, ông nghe thử đúng hay sai hỉ: “Vì thương nhớ mối tình đầu/ Nên chàng không dám đứng ngầu với ai”. Dân Bình Định, vần “ôi” được phát âm thành “âu”. Nên câu trên phải đọc chuẩn là “Vì thương nhớ mối tình đầu/ Nên chàng không dám đứng ngồi với ai”. Nhưng gieo vần như thế thì lục… soát chứ không còn lục bát nữa!
TRẦN ĐĂNG