Làng đá
Làng đá mỹ nghệ Non Nước không phải mới xuất hiện vài chục năm nay để tô thêm một nét son đời sống góp phần làm đẹp cho danh thắng Ngũ Hành Sơn, mà đã có từ xa xưa, kể từ buổi cái địa danh làng Quán Khái xuất hiện trên bản đồ của vùng đất Quảng.
Danh thắng Ngũ Hành Sơn. |
1. Những lớp nghệ nhân bây giờ tiếp nối con đường thời gian dằng dặc hơn bốn thế kỷ, kể từ thuở các bậc tiền nhân xa xưa từ Thanh Hóa, trên đường mở đất lập nghiệp phương Nam đã mang theo nghề đá cổ truyền vào làng Quán Khái - Hòa Vang tạo dựng cơ nghiệp buổi đầu. Thuở đầu khai sơn phá thạch, mở mang lập nên làng, nghề đá chưa phải là nghề chính đủ sức nuôi dân làng, mà chính là cày cuốc như bao làng quê nông nghiệp khác. Những lúc nông nhàn, người dân làng Quán Khái mới lấy nguyên liệu từ đá núi Ngũ Hành Sơn về đục đẽo, mài giũa làm nên những dụng cụ sinh hoạt trong gia đình như: cối xay,cối giã, chày đá…
Nhiều địa phương khác ở khắp nơi nghe tiếng thợ đá làng Quán Khái tạc bia mộ, chạm trổ, khắc chữ đẹp, họ đã đến tận nơi mời về làng mình chạm trổ đình miếu, bia mộ. Dựa vào những năm dựng bia mộ cho các bậc tiền hiền họ Huỳnh, họ Lê nơi đây, ta có thể hiểu được bề dày lịch sử của làng Quán Khái và sự phát triển của nghề đá vào những năm thuộc thế kỷ XVII. Văn bia “Ngũ Uẩn Sơn Cổ Tích Phật Diệt Lạc” được khắc vào vách đá động Vân Thông năm Tân tỵ (1641) trên hòn Thủy Sơn, và văn bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” được khắc vào vách đá động Hoa Nghiêm năm Canh thìn (1640), có thể xem là những dấu tích khởi nghiệp của những bàn tay tài hoa của lớp nghệ nhân đầu tiên làng đá Quán Khái.
Theo các nhà nghiên cứu, cũng theo tiến trình thời gian, do sự sắp xếp tự nhiên, tất cả người làng nghề ở liền với nhau để tiện các sinh hoạt, truyền nối nghề nghiệp cha ông. từ đó đã có những tổ chức quy hoạch đầu tiên, làng Quán Khái được tách ra thành hai làng: Quán Khái Tây và Quán Khái Đông. Chuyên về nghề đá, dân làng Quán Khái Đông khai thác các loại đá cẩm thạch, hoa cương tại Ngũ Hành Sơn để sản xuất, chế tác, làm nên những sản phẩm mỹ nghệ đá như đồ trang sức, trang trí, trưng bày giao lưu buôn bán với nhiều địa phương khác. Kinh thành Huế do các vua triều Nguyễn xây dựng cũng đã có nhiều đóng góp của những người thợ đá làng Quán Khái Đông.
2. Làng nghề đá Non Nước ngày nay là sự kế thừa làng nghề đá Quán Khái ngày xưa. Do suốt một thời đất nước chiến tranh, dân làng Quán Khái đã chuyển ra sinh sống ở làng mới Khuê Bắc nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn lập nên làng mới Non Nước. Ngày nay, sản phẩm đá mỹ nghệ Non Nước đã trở thành thương hiệu quen thuộc, không chỉ trong nước mà còn có mặt nhiều nơi trên thế giới. Tôi đã thử cầm lên một tượng Chăm theo vũ điệu Apsara trong một cửa hàng nằm trên đường Hoàng Sa, hỏi giá thành. Cô gái chủ cửa hàng vừa duyên dáng cười vừa trò chuyện với tôi: “Cũng còn tùy theo khách. Có một lần một vị khách người nước ngoài hỏi mua một tưởng như thế này, người bán hàng vì không biết tiếng nước ngoài đã ra dấu trên bàn tay ý chừng con số 300.000 đồng, không ngờ vị khách ấy đã rút tiền trong ví ra trả đến những 300 đôla. Tất nhiên, người bán hàng không vì thế mà đánh mất đi sự trung thực về cái giá của từng loại sản phẩm ấy. Oái ăm là ở cái chỗ… nghệ thuật đó, bởi vì khi nói giá thành thấp xuống, người khách nước ngoài đã lặng lẽ bỏ đi. Thế nên, nói đến giá thành có khi nó… vô giá thật, có thể hiểu là cứ thấy thuận là bán. Nghe câu chuyện cứ như là giai thoại mà lại là hiện thực.
Tôi có người bạn thân rất say mê trò chơi đá. Anh không là người có tay nghề chế tác các loại đá, anh chỉ yêu đá tự nhiên, thường hay lên núi săn lùng các loại đá có dáng dấp đủ các hình thù, rồi đặt tên như người sáng tác đặt tên cho tác phẩm: Thiền sư, Cô gái quê, Trăng rằm… Ấy vậy mà có vài người thích thú đã mua đến cái giá cả chục triệu đồng. Kể ra trường hợp này, cũng là cách để tôi chứng minh cái điều cô chủ cửa hàng đá nói về sự vô giá của mặt hàng đá mỹ nghệ là không có gì khó hiểu.
Tượng đá mỹ nghệ. |
Từ hơn chục năm nay, nguồn nguyên liệu cho cả làng nghề sản xuất phải mua từ khắp nơi vận chuyển về, tuyệt nhiên không ai được phép khai thác nguyên liệu phá vỡ cảnh quan của vùng thắng tích Ngũ Hành Sơn. Từng cơ sở, tùy thuộc vào từng loại sản phẩm chế tác mà mua đá nguyên liệu. Đá trắng mua ở Nghệ An, đá vân gỗ, đá hường, đá đỏ hoa, đá firo mua ở Hà Tây, đá cẩm đen mua ở Ninh Bình. Đặc biệt điêu khắc tượng Chăm phải dùng chất liệu đá sa thạch ở Quảng Nam.
3. Nói đến điêu khắc tượng, dân làng nghề đá Non Nước dường như không ai không biết đến bàn tay bậc thầy chuyên làm tượng nghệ thuật Chăm của cụ Lê Bền. Với tôi, hình ảnh đẹp của lão nghệ nhân Lê Bền có lẽ mãi song hành với làng nghề đá Non Nước này. Cố nhiên trước cụ, hay đồng hành với lớp của cụ còn nhiều bậc nghệ nhân sáng danh khác, nhưng cái ấn tượng buổi đầu tôi gặp cụ Lê Bền có lẽ là hình ảnh đã khảm khắc vào tôi như… đá núi! Theo nghệ nhân Lê Bền, đến cụ là đời thứ sáu của dòng họ Lê làm nghề điêu khắc đá cổ truyền ở làng đá này. Câu chuyện vào một buổi trưa mùa hạ cách nay gần hai mươi năm rồi, vậy mà nhắm mắt lại tôi vẫn hình dung cái nụ cười phúc hậu của ông già làng đá luôn tươi tắn trên môi. Cụ hào hứng kể chuyện đời, chuyện nghề mê say đến nỗi, đang giữa chừng câu chuyện, cụ Lê Bền chuyển qua hát mấy câu hò khoan mà tôi còn thuộc lòng cho đến tận bây giờ: Quê tôi Ngũ Hành Sơn – Đà Nẵng/ Quán Khái Đông – Hòa Hải, sinh thành/ Nho phong nền nếp gia đình/ Thạch nghệ điêu khắc, nghệ tinh cổ truyền…/ Tạc tượng Phật, chạm rồng lân/ Chuyên điêu khắc tượng đồ Hời cổ xưa/ Mặc dãi dầu chiều mưa nắng sớm/ Vẫn cuộc đời thầm lặng yêu thương… Hóa ra cụ Lê Bền còn soạn cả một bài biền ngẫu ngót mấy trăm câu, mà cụ đặt tên là bài “Hạnh thuật cuộc đời”.
Ngày còn trẻ cụ Bền từng là giáo viên dạy điêu khắc thực hành tại trường Văn hóa Nghệ thuật của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (cũ). Trong các công trình phục chế tượng cổ ở Huế và nhiều nơi khác, nơi đâu cụ cũng được mời tham gia. Tác phẩm lớn nhất để đời của cụ Lê Bền là tượng chí sĩ Nguyễn Duy Hiệu dựng tại đài tưởng niệm ở Hội An. Tượng có chiều cao 5 mét, đứng trên bục cao 10 mét, bằng chất liệu đá sa thạch.
Vui nhất là nghe cụ Lê Bền kể chuyện đóng phim làng nghề. Những đoàn làm phim đến quay cảnh sinh hoạt làng nghề đá Non Nước, đoàn nào cũng nhờ cụ diễn lại vai người thầy truyền dạy nghề cho lớp con cháu. Cụ kể: “Ở trần trùng trục dạy học trò tạc tượng, lấy đâu ra mồ hôi mà thể hiện sự cực khổ gian nan của nghề thợ đá, vậy là phải lấy nước đổ lên mình cho nó… ra mồ hôi”. Tôi nói đùa theo. “Thế là ngoài một nghệ nhân điêu khắc, cụ còn là một tài tử điện ảnh nữa rồi”. Vẫn nụ cười phúc hậu tươi tắn nở trên môi, dù thời điểm tôi gặp tuổi cụ đã cao, lại vừa trải qua một cơn bệnh tai biến hiểm nghèo, nghệ nhân già vẫn thường bên đàn con cháu truyền dạy những tinh hoa của nghề nghiệp đúng như những vần thơ biền ngẫu của cụ: Đức để đời quý hơn vàng bạc/ Nghề cho con ấm mát cuộc đời/ Trăm năm một cuộc đầy vơi… Với cụ Lê Bền là một trăm năm có hậu, bởi nhiều thế hệ cháu con, học trò của làng nghề đá Non Nước rồi sẽ khảm khắc tiếp vào đá bài trường ca “Hạnh thuật cuộc đời”, như thế hệ cụ Lê Bền từng nối tiếp vào những bốn trăm năm bước đi của làng nghề, kể từ buổi lập nên cái làng Quán Khái xa xưa cho đến làng Quán Khái Đông, và tiếp đến làng đá Non Nước ngày nay.
Đi dọc đường Huyền Trân công chúa trong cái nắng tháng tám chói chang, hầm hập và khét nồng mùi nhựa đường mới. Ai đó, nếu xa làng đá vài ba năm trở về có thể sẽ ngỡ ngàng trước những đổi thay đến lạ lẫm của từng con đường. Tôi cũng vậy, dường như sự lấn át của phố phường hiện đại đã phần nào che khuất cái đẹp của gương mặt thường hằng nét trầm tư của làng nghề đá.
Bút ký NGUYỄN NHÃ TIÊN