Người thầy đầu tiên
Còn nhớ năm lên 4 tuổi, tôi được cha dắt đến trường. “Trường” là một ngôi chùa, vách tre, mái tranh, nằm trong khu vườn rợp bóng cây xanh. Tôi ngơ ngác như con nai con lạc bầy. Hai ông Thiện và Ác đứng bên cửa chùa, mặt sơn màu xanh đỏ, yên lặng nhìn những đứa học trò ngu ngơ vào lớp. Lớp học đầu đời của tôi không đầy mươi đứa con nít, tóc còn để chỏm, đi chân đất, quần áo te tua. Tâm hồn tôi như tờ giấy trắng in đậm nét hình ảnh người thầy đầu tiên ấy. Một ông đồ có đôi mắt sáng, tóc đã điểm bạc, lúc nào cũng mặc bộ đồ vải màu nâu có vài miếng vá vụng về trên vai.
Thuở ấu thơ ấy, tôi không hình dung được mái trường, lớp học và ông thầy, huống hồ nói đến sự học là cái chi. Thế nhưng, mọi việc rồi nó sẽ đến, sẽ tuần tự qua đi và khôn lớn như tuổi đời, như mọi cảm xúc tràn ngập theo tháng năm. Những chữ đầu tiên tôi học “thiên trời, địa đất…” trong “Tam thiên tự”, cứ thế ê a cùng đám bạn. Mỗi ngày, cái âm ngữ ấy càng in đậm trong tâm trí của tuổi thơ. Những nét chữ hí hoáy trên lá chuối với cây cọ tre làm bút, tôi như một họa sĩ cần mẫn. Tâm trí tôi chạy theo những nét ngang, sổ dọc. Thầy cầm tay tôi uốn nắn những nét chữ, nghiêm khắc mà hiền từ… Bây giờ, ở cái tuổi cổ lai hy, mỗi dịp nhắc đến là tôi nhớ thầy vô kể, ôi người thầy đầu tiên. Thầy đã mớm cho tôi con chữ đầu đời, con chữ lớn nhất, hay nhất, con chữ mang hết ý nghĩa của sự sống mà sau này tôi mới biết nó tràn ngập khắp không gian, thời gian: chữ thiên (trời).
Năm 6 tuổi, tôi rời chùa Đại Phước. Làng tôi bắt đầu xôn xao chiến sự, kéo theo những ngày tháng hun hút của tuổi thơ. Lớp học ở chùa tan đi hồi nào không hay biết… Chừng ấy tuổi, tôi vẫn ngu ngơ như con nghé lạc mẹ trên cánh đồng quê nhà. Tôi giúp cha dắt trâu cày trên đám ruộng ngoài Cửa Đồng. Ruộng sũng nước, gió mùa đông bắc thổi về từ phía truông Phường Rạnh se sắt. Cái tơi lá không đủ che ấm cho hai cha con. Những con sáo sậu bay đi, bay về trên lưng hai con trâu đang lội bì bõm trên luống cày. Một vài con cò trắng sà xuống kiếm ăn trên bờ ruộng sạ. Nắng tháng mười vàng úa, thơm mùi rạ ngập nước. Quanh tôi, những tiếng hò rì… hò tắc… như còn vang vọng mãi.
Ban ngày đi chăn trâu, đêm xách đèn ve chai đi học. Thời tôi học chữ quốc ngữ ở trường làng nhiêu khê thế đấy! Năm tôi lên 12 tuổi, cha qua đời mà không kịp trối trăng lại một lời. Từ ấy, tôi là đứa trẻ mồ côi, cô đơn tuyệt cùng. Mùa đông, gió bấc thổi lao xao trên những cành tre lả ngọn. Con chim chèo bẻo buồn bã kêu chiều. Mỗi lần đi đốt lửa dưới chân mộ cha, tôi thường ngang chùa, dõi mắt tìm hình bóng người thầy đầu tiên. Nhưng chỉ nghe tiếng chuông chiều loang dần ra, loang dần ra trong xóm nghèo heo hút gió. Thầy tôi đi đâu về đâu, còn hay mất?...
Trong cái thế giới nhỏ nhoi, tịch nhiên của tôi, thầy hiện lên như một nét son phai mờ, lãng đãng như đám mây trắng bay về trên đồi núi quê nhà. Sau này, trong cuộc bể dâu, ngôi chùa Đại Phước - mái trường xưa của tôi - cũng tan biến trong khói lửa. Hình bóng người thầy cũng phai mờ dần. Thầy đang ở đâu trong cõi mênh mông của đất trời huyền ảo? Trong cuộc sinh tồn, tôi đã nợ thầy món nợ mãn khai tri thức…
HOÀNG QUY