Canh khoai mỡ lá gừng non
Gọi là khoai mỡ, nhưng chẳng có tẹo mỡ nào. Chúng còn được gọi với nhiều tên khác nhau như: khoai mặt, khoai choái, khoai tréo ngoe, khoai hục chát, khoai hục mỡ. Mà thích nhất vẫn là khoai tím, có lẽ vì vị béo bùi hay còn vì màu sắc đẹp đến ngỡ ngàng.
Khoai mỡ được trồng vào tầm tháng Tư âm lịch, sau mùa đậu phụng. Mẹ vào buồng, khom người kéo nhúm khoai giống được để dưới gầm giường anh hai nằm. Mẹ la oai oái, cái thằng, đái mế đến khoai lên ngồng luôn nè trời.
Mẹ vào bếp khênh bao tro đã dành từ mùa đông năm trước, đổ ra chiếc mủng ba ang. Rồi mẹ kê tấm đòn ngồi thoải mái, dùng chiếc dao cán dài xẻ năm xẻ bảy củ khoai mập ú. Mớ khoai được lùi vào tro bếp, lấm lem, mẹ mang ra góc vườn nơi ba đang làm đất.
Miếng đất trống mẹ gieo mè, còn lại khoảnh vườn, ba đánh thành luống, bổ giữa như cái mương nhỏ. Mẹ gánh mớ phân chuồng đã ủ mục hơn một mùa. Mấy con sùng ngoe nguẩy cuộn tròn cố tránh ánh mắt thèm thuồng của lũ gà mái đang dẫn bầy con tục tục quanh thửa đất tìm giun. Ba lấp đất phủ lấy dải phân mẹ vừa bỏ xuống. Cứ hai gang tay, mẹ lại vùi một mẩu khoai. Ba chặt mớ cây dại quanh vườn phủ lên sợ gà bới tơi tả.
Mưa. Từng đợt mưa dông ì ầm. Mớ đất sau vườn đã nhú những mầm xanh. Ba vần khúc tre già chẻ nan. Mẹ mang ra cắm lên luống khoai đã chi chít mầm. Từng đọt xanh non bám lấy choái, uốn lượn rồng rắn.
Sau cả nửa năm trời rồi cũng đến ngày thu hoạch. Rút những chiếc chói chất vào một đống, mẹ lấy lưỡi hái, tay thoăn thoắt cắt những dây khoai đang bò chằng chịt cho cả vào chuồng. Lũ bò tranh nhau lặt những chiếc lá còn xanh.
Ba lấy cuốc chĩa năm răng khơi mớ đất phủ rơm lẫn lá mục. Từng củ khoai xám sì trốn nơi đất ẩm, mẹ chọn những củ mập mạp để lại làm giống cho mùa sau. Mớ khoai cặn để dành nấu canh mẹ cất qua bên. Số còn lại mẹ chất vào thúng mai quẩy lên chợ.
Buổi chợ quê nhọc nhằn, các bà các mẹ đưa mắt nhìn nhau. Mẹ khom người gánh thúng khoai ra phố. Người phố hết cầm lên lại đặt xuống, chê chỗ này, bĩu chỗ nọ, rồi ép giá đủ đường.
Mắt mẹ cay xè mồ hôi, nghĩ đến đường về xa xôi, nghĩ đến mấy cái bụng lép kẹp đang chờ ở nhà, nghĩ đến ánh mắt thảng thốt buồn của ba, mẹ chậc lưỡi, nài nỉ thêm chút nữa rồi cũng thuận lòng bán cho người ta.
Mẹ lại hàng thịt, nhìn tới nhìn lui, thập thò cân nhắc. Mẹ mua ít vụn thịt bò lẫn trong mớ mỡ nhì nhằng, vài lạng cá bé xíu, dăm tép nén, bịch kẹo ú và bao thuốc lá. Nghĩ đến bọn trẻ chia nhau túi kẹo, nghĩ đến nồi canh thơm lừng cả gian bếp, mắt mẹ hấp háy vui.
Mẹ sai tôi ra sau hè hái mớ lá gừng non, rửa sạch, cắt nhuyễn. Rổ khoai đã được gọt sạch vỏ, cắt to miếng. Mẹ bắc nồi lên bếp, ngoáy một muỗng bự mỡ heo rán đun sôi.
Mỡ sôi xèo xèo, mẹ bỏ ít nén đập giập. Mùi thơm ngát bốc lên, thêm chỗ khoai đang chờ sẵn vào, đảo đều tay, thêm tí muối rồi nhấc ấm nước sôi đang vần bên cạnh châm thẳng vào nồi.
Lửa cháy ngùn ngụt, nồi canh sôi sùng sục, mẹ cho chỗ thịt vụn đầy mỡ đã ướp gia vị. Mớ khoai vỡ ra, tím rịm. Nêm nếm vừa ăn, mẹ cho nốt chỗ lá gừng non vào rồi nhấc nồi ra khỏi bếp.
Bát canh thơm lừng mời gọi. Khoai bở tơi, miếng mỡ bò vàng ruộm giòn thơm, mùi lá gừng non quyện sánh. Chan vào bát cơm nóng hôi hổi, từng muỗng canh khoai quyện vào cơm sền sệt. Đưa muỗng múc nhẹ, thổi phù phù, rồi cho vào miệng, cái béo bùi tan ra, thấm vào từng ngóc ngách thịt da.
Món này phải ăn nóng mới nghe hết được vị thơm của mỡ bò và lá gừng non. Dẫu cuộc sống có qua bao đổi thay, dẫu những món ngon mỗi ngày mời gọi, thì với tôi, bát canh khoai mỡ lá gừng của mẹ mãi là thứ đặc sản thiêng liêng.
Cứ hẹn với lòng, sẽ lại tìm mua mớ khoai mỡ ngày nào, cố trồng vài bụi gừng để vặt lá non, sẽ chọn mua mớ mỡ bò, loại mỡ gàu vàng ươm giòn thơm. Sẽ lại tỉ mẩn nấu bát canh khoai, rồi đặt lên bàn thờ ba với lời khấn nhỏ, nhắc nhớ kỷ niệm ngày nào khoai sắn có nhau.
Mẹ sẽ nhìn tôi trầm tư nơi đáy mắt. Nhớ ơi khoai mỡ lá gừng.