Một người Quảng lưu lạc
Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhơn là người gốc Đà Nẵng di cư vào Nam. Ông là một trong Ngũ Hổ tướng Gia Định, Tổng tài Quốc sử quán và cũng là người từng hai lần làm Tổng trấn Gia Định, hai lần “làm sui” với các vua triều Nguyễn!
Tổng trấn đầu tiên của Gia Định thành
Nguyễn Văn Nhơn (1753 - 1822) là danh thần triều Nguyễn. Tên Nhơn (hay Nhân) là do vua Gia Long ban, ông vốn có tên là Nguyễn Văn Sáng, biệt danh “Quan lớn Sen”, ở làng Tân Đông, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang, nay thuộc TP.Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Nguyễn Văn Nhơn bắt đầu binh nghiệp bằng chức Cai đội vào năm 1774 với việc đem 4 đội binh mã của mình theo phò Trấn thủ Long Hồ là Tống Phước Hiệp. Năm 1877 ông được thăng chức Cai cơ. Năm 1782 ông bị Tây Sơn bắt giam 3 năm. Sau khi trốn thoát ông tìm sang Xiêm để gặp Nguyễn Ánh. Trên đường đi ông gặp người của Nguyễn Ánh sai về nên quay lại, tập hợp binh sĩ chiếm giữ Long Xuyên.
Sau khi chiếm lại được Gia Định, ông được thăng chức Vệ úy Hữu tiệp Trung quân Thủy dinh, sau đó được cử làm Trấn thủ Trấn Biên.
Sau khi lên ngôi, Gia Long cử ông làm Lưu trấn Gia Định (1802 - 1805). Năm 1808, khi đổi trấn Gia Định thành Gia Định thành, ông được cử làm Tổng trấn. Ông là Tổng trấn đầu tiên của Gia Định thành. Đến năm 1813 ông giao chức vụ này lại cho Lê Văn Duyệt. Năm 1819 ông quay trở lại chức vụ cũ. Năm 1821 ông được triệu về kinh cùng Trịnh Hoài Đức, Phạm Văn Hưng giữ chức Tổng tài Quốc sử quán. Ông mất vào mùa xuân năm 1822, thọ 69 tuổi.
Nghe tin ông qua đời vua Minh Mạng cho bãi chầu 3 ngày đích thân đến ban rượu tế và câu đối, lại cấp 100 mẫu tự điền, truy tặng tước Dực vận đồng đức công thần, Đặc tiến Trụ quốc Thượng tướng quân, Thái bảo Quận công. Nguyễn Văn Nhơn được thờ ở Thế Miếu và Miếu Trung Hưng Công thần (1824). Năm 1831 được truy tặng Tráng Võ Tướng quân, Đô thống phủ Chưởng phủ sự, tước Kinh Môn Quận công, thụy là Mục Hiến.
Ngày nay, Nguyễn Văn Nhơn được thờ ở đình làng Tân Hưng Đông (Sa Đéc) và được cúng tế hằng năm. Lăng mộ ông cũng còn tại đây.
Nguyễn Văn Nhơn, đã hai lần “làm sui” với các vua nhà Nguyễn. Con trai ông là Nguyễn Văn Thiện làm Phò mã cưới Công chúa Ngọc Khuê, con gái thứ 12 của vua Gia Long; con gái ông là Nguyễn Thị Trọng được đưa vào cung làm Lệnh phi của vua Thiệu Trị.
Một người đặc biệt
Nguyễn Văn Nhơn là người văn võ song toàn. Về võ, ông giúp Nguyễn Ánh đánh chiếm lại vùng Gia Định, hợp lực đánh chiếm và đóng giữ nhiều vùng đất quan trọng khác như Phú Yên, Diên Khánh… Ông là nhân vật xếp thứ hai trong Ngũ Hổ tướng Gia Định (gồm Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức và Trương Tấn Bửu). Tuy là võ tướng lừng danh nhưng ông không võ biền. Khi làm Trấn thủ Trấn Biên ông đã xây dựng nơi đây thành một hậu phương ổn định và trù phú, giúp Nguyễn Ánh yên tâm Bắc tiến để thống nhất sơn hà. Những năm tháng cuối đời ông làm một văn thần hết lòng phò vua giúp nước.
Có người (khuyết danh) đã nhận xét về ông: “Cuộc đời của hổ tướng Nguyễn Văn Nhơn không gầm thét một vùng như Lê Văn Duyệt, không thao lược sa trường như Nguyễn Văn Trương cũng không bi hùng như các hổ tướng Trần Quang Diệu, Lê Văn Hưng... của nhà Tây Sơn. Cuộc đời ông mang đậm sắc màu của một đại tướng có tài cai trị, chăm lo cho dân và đặt quyền lợi nhân dân, quốc gia lên trên tất cả. Nguyễn Văn Nhơn từng cầm quân kịch chiến với các hổ tướng Tây Sơn, mang quân chinh phạt Cao Miên, Xiêm La khi cần nhưng trên hết ông đã dành 20 năm cuối đời mình để xây dựng một Nam bộ và Việt Nam thống nhất, thái bình” (theo trang Yêu sử Việt).
Ông là một người ham học, coi trọng việc học. Xuất thân là võ tướng nhưng ông luôn tìm cách tiếp cận tri thức. Lúc nhỏ do điều kiện chiến tranh ông không được học bài bản vì vậy khi làm Trấn thủ Trấn Biên, dù đã lớn tuổi và có địa vị ông vẫn rước thầy về giảng kinh sách cho mình và ông đã ngày đêm miệt mài học tập, bổ sung thêm kiến thức. Nhờ thế những phân tích tình hình trong các tấu trình của ông luôn rất “bài bản” và cuối đời ông đã được vua Minh Mạng giao chức Tổng tài để viết hai bộ sử quan trọng thuộc loại hàng đầu của triều Nguyễn: Liệt thánh thực lục và Đại Nam thực lục. Ngày đó không có thực học không bao giờ được giao những công việc liên quan đến… chữ nghĩa!
Nguyễn Văn Nhơn cũng là người có tư tưởng cải cách. Năm 1802 sau khi Gia Long bình định xong Bắc Hà, Nguyễn Văn Nhơn đã dâng sớ điều trần gồm 14 điều liên quan đến nhiều lãnh vực như: Định lại các thứ thuế, bỏ hẳn các loại thuế tạp, giảm thuế cho dân; Cải cách việc học, lập nhà hương học, định lại phép khoa cử; Cầu người hiền, cử người hiếu liêm, đặt lại phép tắc cho nghiêm với quan lại; Cải cách phong tục; sửa đổi hình phạt, phát chẩn cho dân nghèo, lập đồn trại ở các nơi kết hợp sản xuất với bố phòng, an ninh.
Tất cả những tấu trình của ông được Gia Long nghe theo, ra lệnh cho thực hiện.
Một người Quảng di cư
Trong tác phẩm Theo dấu Người xưa (NXB Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, năm 2017) hai nhà nghiên cứu Phan Mạnh Hùng và Nguyễn Đông Triều cho biết: “Tổ tiên Nguyễn Văn Nhơn vốn sống ở Cửa Hàn (nay là Đà Nẵng) theo Chúa Nguyễn vào Nam ở dinh Trấn Biên, thôn Bình Chánh, sau đó lập quê quán ở làng Tân Đông (nay thuộc TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Cha Nguyễn Văn Nhơn là Nguyễn Văn Quang (1705 - 1764) có ba bà vợ, Nguyễn Văn Nhơn là con trai thứ hai của bà vợ thứ 2” (trang 11, 12).
Nhà nghiên cứu Nguyễn Nhất Thông dựa vào gia phả của họ Nguyễn Văn ở Sa Đéc, trong tác phẩm Đôi nét văn hóa - lịch sử một vùng đất (NXB Hội Nhà văn, 2019) cho biết: “Ông Nhơn là người sinh quán tại thôn Tân Đông, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang (nay thuộc xã Tân Khánh Đông, TP.Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Nội tổ là Nguyễn Văn Trâu, người ở Cửa Hàn, làng Con Nhạn, xã Ô Phi thuộc Đà Nẵng, hưởng ứng cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn nên đưa gia đình vào Nam lập nghiệp. Ông Trâu đã dừng ghe bầu ở thôn Tân Đông, cạnh bờ sông Tiền (nay là xã Tân Khánh Đông, Sa Đéc, Đồng Tháp) khai phá, mở mang nên cơ nghiệp. Chẳng bao lâu sau, ông kết nghĩa thông gia với ông Hương hào Chiêm ở thôn Tân Khánh bên cạnh. Đó là cuộc xe duyên cho Nguyễn Văn Quang và cô thôn nữ Thị Áo để rồi sinh ra Nguyễn Văn Nhơn vào năm 1753”.
Như vậy, Nguyễn Văn Nhơn là người Quảng di cư vào Nam đã ba đời. Rất tiếc cho đến nay do nhiều lần đổi tên nhiều địa danh cũ đã không còn, chúng tôi chưa xác định được làng Con Nhạn, xã Ô Phi ngày đó nay thuộc địa phương nào của TP.Đà Nẵng.
Dù rất vô tư, không muốn “bắt quàng” một người sang, chúng ta đều thấy Nguyễn Văn Nhơn mang trong mình nhiều “cốt tính” của một người Quảng!