GS.Trần Văn Thọ: "Tôi có hai quê hương để về" (*)

25/08/2018 01:43

LTS: GS.Trần Văn Thọ, một con người của quê hương Quảng Nam, từng học ở trường Nguyễn Duy Hiệu (Điện Bàn) và trường Trần Quý Cáp (Hội An), sang Nhật du học từ tháng 4.1968. Suốt 50 năm qua ông đã có nhiều cống hiến cho việc phát triển mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản, là chuyên gia tư vấn cho nhiều thủ tướng Nhật Bản và Thủ tướng nước ta. Ông vừa được Thiên hoàng Nhật Bản trao tặng Huân chương Thụy Bảo Tia vàng. Báo Quảng Nam xin trích đăng diễn từ của GS.Trần Văn Thọ tại buổi lễ chúc mừng do Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức ở Hà Nội vào 15.8.2018.

GS. Trần Văn Thọ phát biểu tại Đại sứ quán Nhật Bản ở Hà Nội. Ảnh: Internet
GS. Trần Văn Thọ phát biểu tại Đại sứ quán Nhật Bản ở Hà Nội. Ảnh: Internet

1. Nhìn lại nửa thế kỷ vừa qua tôi thấy mình đã gặp rất nhiều may mắn. Tôi sinh ra và lớn lên ở nông thôn miền Trung. Trong điều kiện còn chiến tranh và khó khăn nhiều mặt về kinh tế, về giao thông, thời đó một học sinh ở nông thôn miền Trung mà học được hết bậc tú tài (tức cấp THPT ngày nay) và vào được Sài Gòn để vừa đi làm vừa học đại học là rất may mắn rồi. Mới ở Sài Gòn vài ba tháng tôi lại gặp một cái may định mệnh là ngẫu nhiên đọc được thông báo của Đại sứ quán Nhật về việc tuyển sinh du học với học bổng của Chính phủ Nhật Bản. Kết cuộc đời tôi đã bước sang một bước ngoặt lớn, một may mắn mà tôi chưa bao giờ mơ tới.

Tháng 4.1968 tôi sang Nhật du học. Tôi dự định học xong đại học hay nhiều lắm là xong bậc tiến sĩ sẽ về nước với hy vọng lúc đó đất nước đã hết chiến tranh, mọi người sẽ nỗ lực góp phần vào việc phục hưng xứ sở. Nhưng rồi thời thế đưa đẩy, tôi đã ở lại Nhật Bản cho đến ngày nay. Tuy vậy, dù không phải là con đường đã chọn ban đầu nhưng nơi đến cũng đã mở ra nhiều cơ hội. Là người Việt Nam tôi yêu quý Việt Nam, nay lại có thêm một đất nước để yêu mến. Người bạn đời của tôi, là người Việt Nam nhưng cũng yêu mến Nhật Bản, yêu thích văn học Nhật Bản, đã và đang dịch nhiều tiểu thuyết, truyện ký Nhật Bản sang tiếng Việt.

GS. Trần Văn Thọ là một mẫu hình của nhà trí thức chân chính đã không ngừng học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo, nâng cao tầm vóc của mình trong công việc nghiên cứu và giảng dạy về khoa học kinh tế.

GS. Trần Văn Thọ còn là tấm gương sáng về lòng yêu nước và tinh thần kiên trung, tận tâm đóng góp cho cả hai đất nước Nhật Bản và Việt Nam. Là người con nước Việt được nước Nhật đào tạo và trao cho những cơ hội làm việc quý báu, ông đã đem hết trí tuệ, tài năng góp phần phát triển kinh tế Nhật Bản, kinh tế Việt Nam, đồng thời kết nối, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Chúng tôi quý trọng và tự hào về giáo sư, nhà trí thức lỗi lạc của hai đất nước Nhật Bản - Việt Nam, người đã truyền bao cảm hứng và khát vọng cống hiến cho giới trí thức và những người trẻ Việt Nam”.
(Chuyên gia kinh tế - Phạm Chi Lan)

Khi ra đi tôi chưa đầy 19 tuổi. Lúc đó còn chiến tranh và điều kiện kinh tế không cho phép nên tôi chỉ quanh quẩn trong phạm vi nhỏ hẹp ở làng xóm, ở trường học. Vào Sài Gòn cũng không đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở nơi trọ, nơi làm việc và đại học. Trong hoàn cảnh đó và bận rộn vì phải vừa đi làm vừa đi học, ý thức về nước Việt Nam hầu như rất ít. Tuy nhiên khi rời xa quê hương thì tự nhiên nhớ và suy nghĩ nhiều về đất nước. Đúng như Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Khi rời xa quê hương, tôi mang theo tâm tình, suy nghĩ về Việt Nam ảnh hưởng chủ yếu qua sách vở về lịch sử, về văn học, về âm nhạc. Ngoài lòng tự hào dân tộc của một nước có nền văn hóa thống nhất và lịch sử nhiều ngàn năm dựng nước, giữ nước, điều ghi khắc sâu vào tâm tư tôi là quê hương mình nghèo quá. Thời đó tôi biết nhiều nhạc khúc ca tụng đồng quê nhưng cũng nói lên cuộc sống nghèo khó. Tôi mong chiến tranh chấm dứt nhanh và Việt Nam phải bước sang giai đoạn thoát nghèo và phát triển.

Thời trung học đọc nhiều tiểu thuyết trong Tự lực văn đoàn. Trong một truyện dài, Nhất Linh đã để cho nhân vật chính của mình nói về lòng yêu nước mà tôi thấy rất thích hợp trong giai đoạn chưa phát triển của Việt Nam: “Biểu hiện cho đất nước không phải là những bậc vua chúa hay danh nhân mà là đám dân thường không tên không tuổi. Dân là nước, yêu nước là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”. Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đây là định nghĩa về lòng yêu nước rất đúng đắn.

2. Tôi sang Nhật du học tháng 4.1968. Lúc đó Nhật Bản kỷ niệm 100 năm Minh trị Duy tân. Nhưng có hai sự kiện khác rất quan trọng và ảnh hưởng nhiều đến suy nghĩ của tôi. Thứ nhất là văn hào Kawabata Yasunari được trao giải Nobel văn chương. Đây là sự kiện làm tôi sớm cảm thấy gần gũi với tâm tình, với văn hóa Nhật Bản. Thứ hai là Nhật Bản đang trong thời kỳ phát triển ngoạn mục và năm ấy đánh dấu cái mốc Nhật vượt Tây Đức trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Sự kiện này làm tôi quan tâm muốn học về kinh nghiệm phát triển của Nhật.

Tôi muốn nói về quan hệ của tôi với kinh tế Nhật Bản. Nhìn lại quãng đời vừa qua, tôi thấy mình học kinh tế, nhất là kinh tế phát triển tại Nhật Bản là điều rất may mắn, có nhiều ý nghĩa. Nhật Bản là nước đi sau trong dòng thác công nghiệp của thế giới, đã tích cực du nhập công nghệ, luật lệ, tổ chức hành chính và tri thức quản lý từ các nước tiên tiến Âu Mỹ và đã thành công trong việc đuổi kịp các nước đi trước. Rất nhiều nghiên cứu về sự thành công của Nhật. Riêng tôi đã thử tìm một nguyên nhân tổng hợp nhất để có thể tham khảo được cho các nước đi sau Nhật. Tôi đã tìm ra một từ khóa để chỉ nguyên nhân tổng hợp đó. Đó là “năng lực xã hội”. Đó là năng lực và tố chất của những nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là chính trị gia, quan chức, lãnh đạo kinh doanh, trí thức và tầng lớp lao động. Mỗi nhân tố cấu thành phải có những tố chất nào để thúc đẩy kinh tế phát triển. Dĩ nhiên tố chất quan trọng của chính trị gia là năng lực lãnh đạo, của quan chức là năng lực quản lý hành chính, của giới kinh doanh là tinh thần doanh nghiệp. Nhưng trong trường hợp Nhật Bản, không phải chỉ có các tố chất đó. Tôi nghiệm thấy rằng tố chất chung nhất của chính trị gia, của quan chức, của nhà kinh doanh Nhật Bản là lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và phải là những người có văn hóa, có giáo dưỡng. Đặc biệt trong thời đại Minh Trị và thời kỳ phục hưng và phát triển hậu chiến, những tố chất đó biểu hiện mạnh mẽ nhất.

Ở đây tôi chỉ xin đơn cử trường hợp nhà kinh doanh. Thông thường thì nhà kinh doanh phát huy tinh thần doanh nghiệp để mưu tìm lợi nhuận chân chính. Tinh thần doanh nghiệp thường được định nghĩa là tinh thần mạo hiểm và năng lực cách tân công nghệ, tích cực khám phá thị trường, ứng dụng công nghệ để làm ra các sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nhưng những nhà kinh doanh tiêu biểu của Nhật không phải chỉ có thế. Hầu hết những nhà sáng lập những công ty tiêu biểu của Nhật hiện nay đều xuất phát từ lòng yêu nước, từ trách nhiệm xã hội. Chẳng hạn lấy trường hợp Sony, một trong những công ty đại biểu của Nhật ngày nay. Trong buổi lễ thành lập công ty vào năm 1946, bài diễn văn của Ibuka Masaru, người đồng sáng lập công ty, đã gây xúc động lòng người. Ông nói: “Ta phải nỗ lực đem công nghệ góp phần vào việc phục hưng tổ quốc của chúng ta”. Giữa cảnh hoang tàn đổ nát mới một năm sau chiến tranh, thái độ của những người có trách nhiệm trong xã hội đã gây phấn chấn và kích thích mọi người hăng hái tham gia vào việc phục hưng đất nước.

3. Với năng lực xã hội như thế, Nhật Bản đã thành công trong quá trình theo kịp các nước Âu Mỹ. Thật ra thời trước Thế chiến thứ hai, Nhật đã theo kịp Tây phương trong một số ngành, một số lĩnh vực, nhưng phải đợi đến thập niên 1960, 1970, bằng một giai đoạn phát triển cao độ, Nhật Bản mới hoàn toàn theo kịp Âu Mỹ. Giai đoạn phát triển cao độ này, bắt đầu giữa thập niên 1950, mỗi năm phát triển trung bình 10% và kéo dài tới 18 năm, đã đưa nước Nhật thành một cường quốc kinh tế. Nhiều người nói đó là giai đoạn phát triển thần kỳ, có nhà nghiên cứu đã nói “6.000 ngày làm thay đổi nước Nhật”.

Gần đây tôi khám phá ra một điểm mà tôi thấy thú vị là kinh tế Việt Nam hiện nay rất giống với đêm trước của thời đại phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Giữa thập niên 1950 dân số Nhật cũng khoảng 90 triệu, cơ cấu kinh tế về sản xuất, về xuất khẩu cũng như sự phân bổ lao động rất giống Việt Nam ngày nay. Tôi rất mong Việt Nam sớm muộn cũng sẽ có một thời đại như thế. Từ sau đổi mới, Việt Nam phát triển trung bình 6,5% và chưa có giai đoạn phát triển cao độ. Tôi định viết một cuốn sách bằng tiếng Việt phân tích giai đoạn phát triển thần kỳ 18 năm ở Nhật và suy nghĩ về những điều kiện để Việt Nam phát triển cao và bền vững trong những năm tới.

Cuối cùng tôi xin chia sẻ một tâm tình, một trường hợp có lẽ hiếm người có được. Mỗi lần từ Tokyo về Hà Nội, tôi nói “tôi về Hà Nội” như là về quê mình, nhưng từ Hà Nội trở lại Tokyo, tôi cũng nói “tôi về Tokyo” vì ở đó có nhà ở và là nơi tôi đã học tập và làm việc hơn nửa thế kỷ. Tức là tôi có hai quê hương để về. Tôi thấy hạnh phúc khi có hai quê hương và xin cám ơn các vị, các bạn bè hai nước Việt - Nhật đã cho tôi cái hạnh phúc đó.

______________
(*) Tiêu đề do Tòa soạn đặt.