Ông tú làng Phước Ấm
Dân gian hay gọi cụ tú tài Trương Bá Huy là ông Tú làng Phước Ấm. Ông là người đã tham gia cả hai cuộc duy tân: phong trào Duy tân (1905 - 1908) và cuộc khởi nghĩa vua Duy Tân (1916); đã từng nếm cơm tù ở Côn Đảo và Lao Bảo.
Mộ Trương Bá Huy ở Bình Triều. |
Bốn ông tú người Quảng của khoa thi Hương năm 1906
Khoa thi Hương năm Bính Ngọ 1906 tại trường thi Thừa Thiên là khoa thi đặc biệt, để lại vết nhơ trong lịch sử khoa cử Nho học dưới triều Nguyễn. Nhưng đây cũng là khoa thi ghi dấu ấn của sĩ tử Quảng Nam: Sĩ tử đâm đơn kiện và thắng kiện, một sự kiện “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử khoa cử Nho học của nước ta.
Về kỳ thi này, Cao Xuân Dục trong sách Quốc triều Hương khoa lục cho biết: “Trường Thừa Thiên lấy đậu 35 người. Nguyên trúng 42 người. Sau khi ra bảng, sĩ tử đưa đơn đến Tòa Khâm sứ và Cơ mật viện khiếu nại về 11 cử nhân học kém mà lại trúng. Vì vậy quý tòa bàn bạc lập hội đồng, cử quan người Pháp, người Nam tiến hành duyệt lại”. Kết quả 3 người “có văn lý hơi trội vẫn cho đậu”, còn 8 người “có văn lý bình thường đều bị giáng xuống hạng tú tài”. Tám người này sau đó cho dự phúc hạch. Kết quả có 7 người rớt, còn 1 người được xét cho đậu mạt hạng cử nhân (đỗ chót bảng)” (Nxb Lao Động, 2011, trang 599). Người đươc xét cho đậu này là Trương Bá Huy.
Đó chỉ là kết quả của khoa thi theo thông tin “chính thống”. Còn dân gian thì truyền nhau bài thơ của Dương Thưởng:
Thủ khoa Trần Cáp tiếng chưa đồn
Ba cậu La Hà cũng một môn
Tích đã Thiệp rồi Từ điểm thấp
Văn như Tương nát Tạ khuyên dồn
Con nên khoa giáp cha mòn trán
Em được công danh chị nát trôn (6)
Bốn hai ông cử đà ra dáng
Lại khéo lôi ra một cậu Tôn
(Thủ khoa là Trần Cáp, tức Trần Trinh Hợp học vấn thuộc loại xoàng.
Ba anh em nhà họ Hà quê làng La Chữ đều đỗ.
Từ Thiệp làm Phó chủ khảo, nhận hối lộ.
Tạ Tương, Thị lang bộ Hình làm chánh chủ khảo, nhận hối lộ.
Viên ngự sử tên Quỳ chạy đủ các cửa để hối lộ cho con thi đỗ.
Tôn Thất Cáp đỗ là nhờ có chị “hối lộ tình dục” cho các quan.
Khoa này có 42 người đỗ cử nhân.
Chỉ Tôn Thất Cáp, người thuộc Hoàng tộc).
Còn “chức sắc của trường thi, tham nhũng nhận hối lộ cả “tiền” lẫn “tình” thì sao? Sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn cho biết: “Chủ khảo Tạ Tương, Phó chủ khảo Từ Thiệp vì không tròn chức trách đều bị đánh 80 trượng, giáng 2 cấp, Giám sát trường vụ Nguyễn Văn Quý có con trai và rể dự thi giáng 3 cấp rời chức, trở đi không được bổ dụng, Hậu bổ Phạm Đôn, Tạ Hàm dụ dỗ sĩ tử lấy tiền… Đôn phạt 100 trượng cách chức cho về nguyên tịch, hàm giáng ba cấp lưu, triệt hồi hậu bổ... Tham tri bộ Lễ Nguyễn Gia Thụy vì ăn nói sơ suất về đơn kiện của sĩ tử, chuẩn truyền chỉ thân sức một lần”. (Nxb Văn hóa - Văn nghệ, 2011)
“Sĩ tử đưa đơn đến tòa Khâm sứ và Cơ mật viện khiếu nại” như sách viết là bốn ông tú người Quảng khởi xướng và cũng là nạn nhân của khoa thi này. Đó là Dương Thưởng, Dương Thạc, Phan Khôi và Trương Bá Huy.
Trùng khơi đã trải rừng thiêng sá gì!
Trương Bá Huy, người làng Phước Ấm, tổng Phú Mỹ Trung, huyện Lễ Dương (nay là xã Bình Triều, huyện Thăng Bình). Ông thuộc dòng dõi Trương Công Thúy, người “có văn học uẩn súc”, bị triều Tây Sơn gọi là “Túy cuồng” và là đốc học đầu tiên của Quảng Nam dưới triều Gia Long. Lúc nhỏ, Trương Bá Huy học rất giỏi là niềm hy vọng cho giới khoa hoạn của địa phương. Năm Bính Ngọ, 1906, ông lều chõng đi thi Hương, kết quả như trên đã kể.
Chán ngán cái học khoa cử lỗi thời lại thêm tình trạng tham nhũng ở trường thi, Trương Bá Huy quyết định không theo con đường khoa cử nữa mà tham gia phong trào Duy tân - đang là vấn đề “thời sự”. Ông sớm trở thành cánh tay đắc lực cho lãnh tụ Trần Quý Cáp, người vừa được bổ về làm giáo thọ Thăng Bình. Sau khi Trần Quý Cáp đổi vào Ninh Hòa, Trương Bá Huy trở thành người lãnh đạo phong trào ở Thăng Bình.
Trong cuộc kháng thuế “long trời lở đất” ở Quảng Nam đầu năm 1908, ngày 26.3 Trương Bá Huy cùng Hương chánh hai làng Hà Lam và Đồng Thới đã chỉ huy nhân dân vây phủ đường Thăng Bình, yêu cầu Tri phủ cùng dân đi xin xâu. Sợ quá, tri phủ Lê Bá Đằng bỏ trốn. Trong bài viết “Vụ kháng thuế ở Trung kỳ năm 1908”, Huỳnh Thúc Kháng cho biết: “Ở phủ Thăng Bình, tri phủ là Lê Bá Đằng khi ở Điện Bàn bị dân dọa khiêng trả, mới đổi vào. Dân họp đông và yêu cầu quan đi xin sưu. Lính gác phủ bắn dọa, vài người dân bị thương. Lãnh tụ đám dân là Hương Quản, Hương Quần, Trương Bá Huy bị bắt” (Chương Thâu, Phạm Ngô Minh, Huỳnh Thúc Kháng tuyển tập, Nxb Đà Nẵng, 2010, trang 1386) .
Trương Bá Huy bị luận tội: “Trương Bá Huy, Lê Dư càn quấy diễn thuyết, phỉ báng quan lại…”, bị kết án: “…Nhưng xét Phan Châu Trinh đã vâng án nghị xử tử, phát đi Côn Lôn; Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện xin cùng Phan Châu Trinh đồng định tội xử tử, phát phối Côn Lôn; vi tùng là Lê Bá Trinh, Nguyễn Đình Tán, Nguyễn Thành, Trương Bá Huy xin đều xử trượng 100 đày 3.000 dặm, phát giao biệt xứ phối dịch…” (Nguyễn Thế Anh, Phong trào kháng thuế miền Trung qua các châu bản triều Duy Tân, Nxb Văn Học, 2008, trang 49).
Ngày rằm tháng Tám năm 1908, Trương Bá Huy cùng 7 người khác lên tàu ra Côn Đảo: “Lúc ấy bị đày đi Côn Lôn, tôi cùng mấy ông cử nhân Phan Thúc Duyện, ấm sanh Nguyễn Thành, cử nhân Lê Bá Trinh, tú tài Trương Bá Huy, Dương Phụ Thạch cùng Hương Cảnh và Hương Quần là 7 người…” (Huỳnh Thúc Kháng, Thi tù tùng thoại, Nxb Nam Cường, Sài Gòn, 1951, trang 32).
Tháng 1. 1914, sau 6 năm thọ án, Trương Bá Huy được thả về (cùng một lượt với Trần Cao Vân, Lê Bá Trinh, Lê Ngung, Nguyễn Hổ Khê…). Ở Côn Đảo về chưa bao lâu, ông được Thái Phiên mời tham gia Việt Nam quang phục hội. Ông đã nhận lời. Trong cuộc khởi nghĩa vào ngày 3.5.1916, Trương Bá Huy được phân công chỉ huy đánh phá tỉnh thành Quảng Nam cùng Phan Thành Tài, Lâm Nhĩ… Cuộc khởi nghĩa thất bại, nhiều người bị chém, nhiều người bị bắt giam trong các nhà lao, người bị đày ra Côn Đảo. Riêng Lê Cơ, Trương Bá Huy, Lê Bá Trinh… bị đày lên Lao Bảo.
Theo Nguyễn Q.Thắng thì năm 1918, nhân vụ phản kháng cai ngục đối xử dã man với các tù nhân, Trương Bá Huy bị thảm sát cùng một lần với Lê Cơ, Dương Thưởng, Lê Trọng Đoàn… và các bạn tù khác (Quảng Nam trong hành trình mở cõi và giữ nước, Nxb Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, 2005, trang 471).
Mộ ông hiện nay ở thôn Hưng Mỹ (thôn 1) xã Bình Triều, huyện Thăng Bình.
LÊ THÍ