Điện Bàn - 21 ngày đêm máu lửa
Đã 52 năm trôi qua, nhưng ngày ấy, cuộc chiến ác liệt 21 ngày đêm diễn ra tại vùng B Điện Bàn (Điện Thọ, Điện Phước, Điện An, Điện Hòa) giữa 10 ngàn quân Mỹ với một Tiểu đoàn Quân Giải phóng – Tiểu đoàn 3 (D3) Mặt trận 4 Quảng Đà vẫn luôn hiện lên trong tâm trí tôi.
Sáng 20.11.1968, chúng tôi (Cơ quan Văn phòng và Ban Tuyên huấn Huyện ủy Điện Bàn) đang trong tư thế chống địch càn quét thì được tin có một trung đoàn Mỹ từ đồn Bồ Bồ - Điện Tiến càn xuống xã Điện Thọ, các anh lãnh đạo lùi xuống thôn Châu Lâu, phân công tôi cùng chị Trần Thị Trung (cán bộ Ban Tuyên huấn) ở lại rúc công sự tránh địch. Sau một ngày rúc công sự, nghe tiếng súng nổ rất nhiều phía trên mặt đất, tối đến, chị em trồi lên thì gặp bộ đội D3 và được biết các anh đã chiến đấu suốt ngày để ghìm chân, không cho địch vào làng và kế hoạch sẽ di chuyển quân… Chúng tôi quyết định bám theo bộ đội. Cũng từ đó chúng tôi trở thành nhân chứng sống chia lửa với các anh D3 trong suốt cuộc chiến 21 ngày đêm.
Tối đó, D3 xuống thôn Nông Sơn xã Điện Phước, các cuộc giao tranh ác liệt tiếp tục diễn ra, rồi di chuyển dọc đường 100 vào ban đêm. Địch phát hiện, nổ súng chặn lại, nhiều đêm, anh em quyết tử mở đường máu để đi nhưng đều bất thành. Các đêm sau đó đơn vị tiếp tục di chuyển đến các thôn Hạ Nông, Châu Lâu, Đông Hồ, Làng Ngang và cuối cùng là thôn La Thọ, xã Điện Hòa.
Qua thông tin từ điện đài chỉ huy của ta và loa từ máy bay địch kêu gọi đầu hàng, bộ đội D3 biết đơn vị mình đã bị bao vây bởi quân Mỹ. Ban ngày, chúng dồn dập mở các cuộc tấn công vào khu vực đóng quân của D3 (có ngày lên đến 17 cuộc), kết hợp cả bộ binh, xe tăng, đại bác và máy bay dội bom. Nhưng hơn 200 cán bộ, chiến sĩ D3 vẫn kiên cường chống trả quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của địch, nhiều đợt xáp lá cà, ta thu được vũ khí địch để đánh địch… Cả đợt chống càn 21 ngày đêm máu lửa, với lực lượng không cân sức D3 đã tiêu diệt và làm bị thương hơn 1.000 tên địch, phá hủy hàng chục xe tăng, bắn rơi 15 máy bay, thu hơn 100 súng các loại. Nhưng quân ta cũng phải trả một cái giá rất đắt: Tiểu đoàn hy sinh gần hết - chỉ còn lại Thủ trưởng Khôi, Tiểu đoàn trưởng đi họp Mặt trận 4 và một ít anh em còn sống. (Sau này Mặt trận 4 tuyển quân xây dựng lại tiểu đoàn với bộ khung là những cán bộ, chiến sĩ còn lại).
Khi viết những dòng này, tim tôi như thắt lại, hình ảnh các anh chiến đấu ngã xuống trước mắt, cứ hiện hữu trong tôi. Hôm đó, khoảng 24.11.1968, đồng chí đại đội trưởng đứng trên miệng hầm chỉ huy trận đánh thì chiếc tàu rà của địch sà xuống bắn một quả rốc-két trúng ngay người, một nửa thân hình còn lại của anh ngã xuống… Cả hầm tôi đang trú dày đặc khói mù cay không ai thở nổi, chúng tôi phải lấy tay khoét đất đưa mũi xuống cố lấy hơi để thở. Cứ thế bom đạn suốt ngày dội xuống khu vực đóng quân.
Tối đến, địch co cụm ra xa hơn, anh em chúng tôi lên khỏi miệng hầm để xử lý gấp rút thương vong trong ngày: số anh em hy sinh thì đưa xuống các căn hầm bị bom xới rồi lấy xẻng lấp đất lại (có hầm đến 7 liệt sĩ), những thương binh nặng thì khiêng xuống hầm (lúc có điều kiện thì kèm theo ít nước và gói gạo rang), thương binh nhẹ thì di chuyển theo đơn vị… Tất cả diễn ra dưới làn đại bác và pháo sáng của địch. Cứ mỗi đêm đơn vị di chuyển đi nơi khác là để lại một số anh em thương binh, liệt sĩ như vậy đó!
Đêm 9.12.1968, chúng tôi cùng D3 di chuyển đến thôn La Thọ (nam sông La Thọ) xã Điện Hòa, anh em khẩn trương đào công sự chiến đấu, còn hai chị em chúng tôi trú trong hầm đại bác cùng các anh chỉ huy. Rạng sáng 10.12.1968, các mũi quân của địch đồng loạt tấn công siết chặt vòng vây, anh em D3 không nao núng, chiến đấu kiên cường, dũng cảm đẩy lùi nhiều đợt xe tăng, bộ binh của địch. Đến khoảng 15h, địch vừa ném bom, bắn pháo, vừa siết chặt vòng vây. Căn hầm đại bác mà chúng tôi đang trú bị trúng bom bay mất một nửa, nhiều anh em hy sinh không còn nguyên vẹn. Tôi và chị Trung bị thương nhẹ, cháy sém cả mặt mũi, tóc tai…
Trận chiến trở nên khốc liệt hơn khi hàng chục chiếc trực thăng (sâu đo) chở quân ồ ạt đổ xuống cánh đồng La Thọ siết chặt vòng vây, hai bên giáp chiến, súng nổ liên hồi. Các anh chỉ huy còn lại hét bên tai chúng tôi như một mệnh lệnh: “Chúng mày không được chết ở đây!”. Nói xong, các anh đẩy hai chị em tôi lên khỏi miệng hầm. Trên đầu là hai chiếc máy bay (tàu rà), quần đảo tìm mục tiêu, thấy chúng tôi như thấy miếng mồi ngon, chúng ném quả mù đỏ chỉ điểm cho những chiếc máy bay khác ném bom và bắn xối xả quanh chúng tôi, dưới chân cỏ lùng cao lút đầu, vướng không thể chạy nổi... Không còn con đường nào khác, chúng tôi chạy ra bờ sông La Thọ, quân địch đuổi theo sau… Tiếng súng trong xóm thưa dần… Băng qua hào giao thông, thấy nhiều anh em bị thương nặng nằm la liệt, chúng tôi chỉ kịp rúc nhanh vào bụi cỏ lùng dưới chân các bụi tre gần bờ sông. Tiếng quân Mỹ la hét ngày càng rõ, tiếng đạn M79 nổ ngay cạnh chỗ chúng tôi nằm. Hai chị em tôi mím chặt môi, rút chốt lựu đạn sẵn sàng bung ra sống chết với kẻ thù quyết không cho chúng bắt sống…
Chiều xuống, chúng tôi nghe tiếng lính Mỹ xa dần và nghe được tiếng máy bay hạ xuống cánh đồng, chắc là để hốt quân và số lính chết, bị thương đi. Chiến trường yên tĩnh lạ thường, cái yên tĩnh của sự chết chóc. Bình tâm lại, tôi lắng nghe, và... tiếng anh em, đồng đội, đồng chí gọi tìm nhau… Tôi khóa chốt lựu đạn rồi chui ra khỏi bụi tre. Trước mắt là cảnh tượng quá thương tâm, rất nhiều chiến sĩ của ta bị địch bắn hy sinh ngay dưới hào giao thông… Các anh du kích, bộ đội còn sống đi tìm những người còn lại và giải quyết thương vong.
Bây giờ đã tròn 52 năm trôi qua nhưng những hình ảnh các anh hy sinh trong trận chiến vẫn in đậm trong tâm trí tôi. Cứ đến ngày Thương binh - liệt sĩ và các ngày lễ lớn, tôi lại về Nghĩa trang liệt sĩ Điện Bàn để thắp nén hương lòng tưởng nhớ anh em Tiểu đoàn 3 - các Anh hùng liệt sĩ đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc.
Có một điều luôn trăn trở, nhất là mỗi lần nghe chương trình “Nhắn tìm đồng đội” tôi càng day dứt hơn bởi đã chứng kiến các anh nằm lại những căn hầm ở các địa điểm đơn vị đã đi qua. Mong muốn cháy bỏng của tôi và các anh chị em đơn vị D3 là tại nơi các anh hy sinh nhiều nhất (bờ nam sông La Thọ xã Điện Hòa) có được một “Bia tưởng niệm liệt sĩ Tiểu đoàn 3 Mặt trận 4 - Quảng Đà” để anh chị em đơn vị, gia đình, bạn bè và bà con địa phương hương khói các anh trong những ngày lễ, tết, để các anh cảm thấy ấm lòng trên quê hương thứ hai của mình và biết rằng nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng mãi mãi ghi nhớ Tiểu đoàn 3 anh hùng.
______
(*) Tác giả nguyên là Ủy viên Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng, nguyên Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội TP.Đà Nẵng.