Người phụ nữ kiên cường, chung thủy
Cuối năm 1962, một số cơ sở của ta có người Quảng Nam hoạt động ở Sài Gòn bị lộ. Ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn ráo riết lùng sục, bắt bớ, tổ chức quyết định chuyển bà Điểm về Rạch Giá (nay là Kiên Giang) công tác. Rạch Giá là tỉnh có một số vùng được giải phóng sau năm 1960, nhưng đời sống nhân dân còn nghèo, trẻ em và nhiều người lớn chưa biết chữ hoặc biết sơ sơ, hiểu biết về đường lối cách mạng vẫn hạn chế. Biết bà Điểm đã học hết lớp 7 phổ thông tại Tam Kỳ, tổ chức tỉnh Rạch Giá phân công bà về Ban Tuyên huấn huyện An Biên, làm trưởng ngành giáo dục, cùng đồng nghiệp tiếp tổ chức lớp và tham gia giảng dạy văn hóa cho thiếu niên, dạy bình dân học vụ, bổ túc văn hóa, bồi dưỡng trình độ chính trị cho thanh niên, nhân dân và cán bộ địa phương.
Hồi ở quê nhà Quảng Nam, bà Điểm chỉ biết Rạch Giá là một tỉnh miền Tây Nam Bộ gạo trắng, nước trong, nhiều tôm cá, nay bà đứng trước vùng đồng ruộng, rừng, nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, nhà dân thưa thớt, đi lại khó khăn. Cách sống và sinh hoạt của cán bộ, nhân dân nơi đây khác xa với Quảng Nam, nhưng bà không dao động mà lập tức liên hệ để ở nhờ nhà dân, làm việc với dân và tiến hành công tác. Bà còn xin đất trồng lúa, học cách giăng câu để kiếm tôm cá, tự túc một phần lương thực, thực phẩm hàng ngày. Rồi bà cùng đồng nghiệp vận động nhân dân địa phương ủng hộ đất đai, nguyên vật liệu xây dựng trường học, làm hầm trú ẩn và cho con em đi học.
Trong điều kiện thiếu tài liệu giảng dạy, bà Điểm tham khảo sách giáo khoa cũ để biên soạn giáo án các lớp học. Bà giảng dạy tận tình, giúp học sinh nhanh hiểu và nắm vững bài. Nhiều ngày, máy bay Mỹ quần đảo, bắn phá gần trường, bà vẫn bình tĩnh đứng lớp. Có ngày, để bảo đảm an toàn cho học sinh, bà tổ chức dạy vào ban đêm. Vừa dạy phổ thông, bà vừa dạy bình dân học vụ, bổ túc văn hóa cho một số người dân và cán bộ cơ sở. Biết kiến thức văn hóa, khoa học, chính trị của mình còn hạn chế, bà chịu khó theo học các lớp tập huấn nghiệp vụ của tỉnh, của Khu 9, đi tìm sách giáo khoa cấp 3 để tự học. Đến năm 1968, bà đã có trình độ tương đương lớp 10. Bà còn tham gia đầy đủ các lớp tập huấn chính trị của huyện, tỉnh và chịu khó nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Phát thanh Giải phóng để nắm đường lối, chủ trương của Đảng, của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, truyền đạt tới nhân dân địa phương vào những ngày kỷ niệm lớn của đất nước, của miền Nam…
Trong 12 năm công tác ở Rạch Giá, bà Điểm đã góp phần cùng đồng nghiệp dạy văn hóa cho hàng nghìn học sinh, nhân dân, cán bộ cán bộ địa phương, giúp mọi người có kiến thức nhiều mặt, vận dụng vào cuộc sống và tham gia công tác xã hội, tòng quân giết giặc. Nhiều người đã trở thành cán bộ nòng cốt ở thôn xã. Bà còn động viên con trai là Đinh Hồng Thái mới hơn 10 tuổi, buổi tối đi giăng câu kiếm cá về phục vụ nhà bếp của lớp học hàng chục người... Được mẹ và cô bác dạy dỗ, năm 1967, con trai bà tròn 12 tuổi, được tổ chức chọn đi học trường Lý Tự Trọng của khu 9. Năm 14 tuổi, Đinh Hồng Thái ra trường, về công tác tại cơ quan điện báo khu…
Sau Hiệp định Paris về Việt Nam 27.1.1973, việc thông tin, đi lại giữa hai miền Nam - Bắc thuận lợi hơn trước. Bà Điểm được Tỉnh ủy Rạch Giá bố trí theo đường dây qua vùng ngụy quyền, lên Tây Ninh nhập đoàn ra Bắc chữa bệnh và có mặt ở Hà Nội ngày 20.1.1974. Gặp lại người chồng thân yêu sau 19 năm xa cách và cũng gặp lại anh con trai được Khu 9 đưa ra Bắc học tập và sum họp với bố năm 1972.
Để giữ được sự chung thủy với chồng, bà Điểm đã trải qua nhiều tháng năm thử thách với sự cô đơn và tế nhị khước từ những lời ngọt ngào, chân tình của đồng chí, đồng đội. Bà kể, những ngày hoạt động ở Quảng Nam và vào Sài Gòn, do mới xa chồng nên nhớ ông da diết. Hoạt động lúc ấy chủ yếu là tiếp xúc với dân, mặt khác, ngụy quân, ngụy quyền luôn theo dõi, nên bà không có phút giây nào nghĩ tới tình cảm riêng tư. Khi về Rạch Giá, được gặp nhiều đồng chí, đồng đội cùng công tác, có anh cũng xa gia đình như bà, dáng vóc chững chạc, kiến thức văn hóa, chính trị khá cao, đôi lúc bà cũng cảm thấy rung động. Nhất là thời gian con trai bà đi học ở Cà Mau, sống một mình, có khoảnh khắc bà lóe lên mong muốn được tựa vào một bờ vai... Nhưng rồi bà tự nhủ, nghĩ như vậy là thiếu chung thủy với chồng và kiên quyết gạt đi.
Năm 1969, có anh cán bộ quê Hà Bắc (cũ) được vào Rạch Giá công tác, cùng cảnh cô đơn, xa gia đình, quê hương, cùng sở thích đọc sách, anh nhiều lần đến thăm, động viên bà. Rồi anh làm thơ tặng bà, ngỏ ý muốn xây đắp tình cảm giữa hai người. Nhận thơ, bà ứa nước mắt thương anh, thương mình, nhưng nghĩ tới chồng ở miền Bắc, bà lấy giấy bút viết thư trả lời, đề nghị anh hãy để bà giữ trọn tình cảm, trách nhiệm với chồng, con và hoàn thành nhiệm vụ trên giao.
Một lần, vào buổi tối, cơ quan bà họp bàn triển khai công tác xong, mấy người đã về chòi của mình. Bà thấy có một anh cán bộ đứng lại như có ý chờ ai. Khi bà đi qua, anh nói: “Hôm nay trời hơi lạnh, Điểm đến với anh cho đỡ buồn”. Bà bàng hoàng, tim đập thình thịch. Năm đó bà đang ở tuổi 30, khỏe mạnh, nếu mềm lòng đi cùng anh cán bộ nọ thì cũng chẳng có ai biết, vì các chòi cách nhau hàng chục mét, trời lại tối mù mịt. Nhưng bà nói : “Đi làm cách mạng mà buồn thì đi làm gì. Anh về chòi đi...”. Hôm sau gặp lại, anh cán bộ nọ có vẻ bối rối, như muốn ngỏ lời xin lỗi, nhưng bà mỉm cười, thông cảm...
Sau ngày sum họp với chồng con, bà Điểm được tổ chức bố trí đi chữa bệnh, an dưỡng. Rồi bà được điều về làm việc tại Văn phòng Phủ Thủ tướng (nay là Văn phòng Chính phủ), và chuyển sang Ban Thi đua khen thưởng Trung ương…
Bà Điểm vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huy hiệu 40 năm, 50 năm và 55 năm tuổi Đảng.