Ký ức Trường Sơn Tây (Tiếp theo và hết)
Tin liên quan
|
Mùa hái măng. Một ngày Chủ nhật, Tham mưu trưởng cử cán bộ các ban xuống phục vụ bếp để đi lấy măng. Tôi dẫn 5 người đi. Phải sang bên kia sông Sê Pôn (huyện Sê Pôn, tỉnh Savanakhet, Lào) măng mới ngon và nhiều. Đến bến, tôi vào nhà dân mượn thuyền vượt sông. Không thấy ai. Tôi nói to: “Phò ơi! dù hươn bò?”(Bố ơi! có nhà không). Không có ai trả lời. Tôi nghĩ, thôi mình cứ mượn liều. Thế là sáu anh em lên thuyền. Thuyền độc mộc nhỏ không đủ sức chứa, chòng chành. Tôi cũng biết chèo thuyền, nhưng thuyền độc mộc thì chưa lần nào. Dòng sông dạo ấy mưa nhiều nên chẳng còn “lững lờ” nữa. Đứng trước mấy em (trong đoàn có đến 4 nữ) tôi cũng muốn thể hiện bản lĩnh đàn ông. “Không sao đâu!”. Tôi động viên mọi người và lấy hết sức bình sinh giữ mái chèo. Con sóng cuộn lên làm ướt quần, một cô giật mình đứng dậy. Chiếc thuyền đảo qua đảo lại rồi lật, mọi người chới với. Mấy đứa trẻ khoảng 15, 16 tuổi ngồi trên ngọn cây gần đó cười rộ lên. Bỗng có tiếng một ông lão quát: “Nặn! xúc-ca-xởn-tha hán” (Này! cấp cứu bộ đội). Mấy đứa trẻ nhảy ùm trên cây xuống sông, mấy nam thanh niên trong bản hớt hải bơi ra dìu chúng tôi vào bờ. Mọi người ướt như chuột lột, có hai cô bị sặc nước, mặt tái xanh. Nghỉ một lúc. Hoàn hồn. Chúng tôi “Khop chay, khop chay” (cảm ơn) rồi dắt nhau về. Đợt đó tôi bị kiểm điểm rút kinh nghiệm toàn trung đoàn. May không sao, nếu có chuyện gì xảy ra phải ân hận suốt đời.
Vậy mà đã năm thứ hai tôi ở đất bạn Lào. Người dân Lào cũng như người Việt, cần cù chịu khó làm ăn. Thời đó dân Lào cũng vất vả lắm, cái ăn, cái mặc luôn thiếu. Chiếc gùi sau lưng lúc nào cũng nặng trĩu những củi, bắp… Nơi chúng tôi đóng quân, người Lào nói tiếng Việt tương đối thành thạo. Họ giao tiếp với bộ đội không cần phải phiên dịch. Bộ đội cũng cố bập bẹ tiếng Lào, có khi vừa nói tiếng Lào xen tiếng Việt nghe ngồ ngộ. Bộ đội và đồng bào sống thân thiết, tình cảm. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng đi vào bản uống rượu, tán gẫu với thanh niên, mua sắm, đổi chác…
Hằng năm, vào giữa tháng 4 dương lịch là người Lào bắt đầu ăn tết. Những ngày đó đơn vị cho chúng tôi được về bản tham gia vui tết cùng đồng bào. Tết Lào có nhiều tập tục như: té nước, phóng sinh, buộc chỉ cổ tay…
Tôi nhớ mãi một cái tết Lào. Tôi là thanh niên tích cực, có nhiều thành tích, biết hát, ngâm thơ nên nằm trong diện “đại biểu” đi dự tết cùng trung đoàn trưởng và thủ trưởng các ban. Tôi chọn bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất để mặc. Vừa bước xuống xe, các cô gái Lào (có chuẩn bị trước) chạy ra dùng nước té vào xe, vào các thủ trưởng. Người Lào tin rằng nước sẽ giúp gột rửa điều xấu xa, bệnh tật và cầu chúc năm mới sống lâu, sạch sẽ và mạnh khỏe. Ai bị ướt nhiều là hạnh phúc nhiều. Nước được dùng từ hỗn hợp gồm: nước nghệ, bồ kết, hoa, dầu thơm… nên ai bị té nước cũng thấy dễ chịu. Tôi mang quà của đơn vị nên đi sau. Nước hết, các cô gái Lào nhanh nhảu chạy đi lấy. Họ té vào người tôi. Trời! Thứ nước gì mà đùng đục, hôi hôi… Thì ra, nước dùng để té đã hết, mấy cô “sáng ý” đưa nước vo gạo té vào tôi. Người tôi ướt sũng, hôi hám. May sao anh thanh niên bản chạy về nhà lấy cho tôi bộ quần áo thay tạm.
Lễ buộc chỉ cổ tay truyền thống chứng tỏ sự lưu luyến, mến khách được tiến hành, sau đó uống rượu cần, điểm tâm. Trên bàn chẳng có bát đũa gì cả. Tôi hỏi một anh trong đoàn về việc này. Anh bảo: “Ở đây chỉ ăn bốc thôi!”. Tôi uống một hơi rượu để lấy can đảm. Mọi người đều dùng tay bốc để ăn cả nên tôi cũng quen dần. Tiếp đến là tâm sự giữa trưởng bản với bộ đội và kết nghĩa truyền thống. Sau tiệc rượu cần là lăm-vông (điệu múa Lào). Đống củi to tướng đặt trước sân nhà rông được trưởng bản châm lửa đốt. Ngọn lửa hồng rừng rực bốc cháy. Bản nhạc lăm-tởi cất lên, tất cả đều hát theo và múa: “...Đôi ta biết nhau đây, lòng em theo tiếng khèn...”. Lăm-tởi là loại lăm (có nghĩa là hát) phổ biến nhất ở Lào. Nhịp điệu của lăm-tởi sôi nổi, dồn dập. Loại lăm này được biểu diễn bởi hai người, một trai và một gái hoặc tập thể theo vòng tròn vừa ca vừa múa theo điệu khèn, nhịp trống. Điệu múa rất nhịp nhàng, tình tứ. Lăm-vông với các bài lăm-tởi vang lên da diết, dìu dặt như muốn giữ chân chúng tôi lại cũng như bài hát Việt “người ơi, người ở đừng về...”. Đến lúc say sưa tôi nắm lấy tay một cô gái Lào và nhảy. Nhưng cô gái dừng lại nhìn tôi có vẻ giận dỗi rồi bỏ đi vào trong nhà rông. Tôi chột dạ, đến hỏi trưởng bản. Trưởng bản bảo phong tục ở đây không được nắm tay con gái nếu không phải là bạn tình. “Vào xin lỗi nó đi, nếu không nó bắt đền trâu cho nó đấy!” - trưởng bản nói. Tôi đến bên cô gái Lào, nhẹ nhàng: “Khó thột, khó thột” (xin lỗi). Cô gái biết tôi có lỗi nên tha thứ và tiếp tục nhảy múa. Hú vía! Đền trâu thì chắc sẽ bị trung đoàn kỷ luật thôi!
Năm tháng trôi dần, công việc nối tiếp công việc. Và ngày ra quân cũng đến, ngày 20.6.1984. Tôi mừng lắm. Mừng vì mình đã hoàn thành nghĩa vụ cao cả của Tổ quốc giao cho. Mừng vì sắp được về bên bố mẹ, gia đình, trở lại với nghiệp dạy học. Vui vì cầm tấm bằng khen của Bộ Quốc phòng để về khoe với bố, khỏi hổ thẹn với ông. Bố tôi cũng là bộ đội. Ngày tôi lên đường ông đưa cho xem chiếc hộp đựng đầy huân huy chương của mình và chẳng nói gì. Tôi hiểu ý ông.
Ra quân thật vui, nhưng tôi cũng thấy buồn. Những cảm xúc xa đơn vị, xa bạn bè cứ trào dâng… Ngày ra quân mọi người tiễn tôi trong tình yêu thương đồng đội. Tôi cảm ơn rất nhiều về những tình cảm bao ngày gắn bó, vui buồn bên nhau…
Kỷ niệm những ngày quân ngũ trên đất bạn Lào cứ đi theo tôi suốt năm tháng dạy học. Vậy mà đã 35 năm. Ba mươi lăm năm trôi qua, ký ức Trường Sơn đã đi vào từng trang giáo án, từng lời giảng, gieo vào lòng học sinh những tình yêu đất nước thiết tha. Chắp cánh cho tôi đi vào lời thơ, lời văn trong từng trang báo.
Năm 2004 tôi đã có dịp quay lại bản Đông. Bản đã đổi thay nhiều. Nhà cao, người đông đúc tấp nập. Có nhà hàng, có quán xá bán đủ các mặt hàng. Những người dân nước bạn Lào giáp biên giờ đã có cuộc sống đầy đủ hơn. Trên gùi của các cô gái là những mảnh vải hoa rực rỡ, những bộ quần áo đắt tiền… chứ không phải là những gùi củi, gùi bắp như trước. Tôi gặp lại những người bạn Lào vẫn niềm nở thân thương như gặp lại người nhà của mình. Tình cảm hai nước Việt - Lào mãi mãi như thế ngày càng sâu đậm bền chặt.
NGUYỄN ĐẠI DUẪN