Nguyễn Bá Phát, vị tướng tài trí
“Là một người cộng sản kiên trung, người con trung hiếu của Liên khu 5, vị tướng tài trí của quân đội ta, có nhiều công lao đối với Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam. Tôi nhớ mãi Thiếu tướng Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát một vị tướng tài trí của quân đội ta, người đồng chí thân thiết mà tôi luôn tin tưởng mỗi lần giao nhiệm vụ”. Đó là lời nhận xét của cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp về người đồng chí của mình - Thiếu tướng Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát.
Đồng chí Đàm Quang Trung, Chỉ huy trưởng và đồng chí Nguyễn Bá Phát (trái), Chỉ huy phó Mặt trận Quảng Nam – Đà Nẵng thời kỳ toàn quốc kháng chiến. Ảnh tư liệu |
Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, sinh năm 1921 trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng tại xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, TP.Đà Nẵng. Tháng 7.1945, ông tham gia Đội tự vệ bí mật của Việt Minh chuẩn bị giành chính quyền ở địa phương. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tháng 9.1945, Nguyễn Bá Phát gia nhập Vệ quốc đoàn tại Đà Nẵng, Chỉ huy trưởng thủy đội Bạch Đằng.
Tháng 10.1945, đơn vị thủy đội Bạch Đằng được lệnh lên đường vào Nam theo phong trào “Nam tiến” và đóng quân tại thành phố Quy Nhơn. Tại đây, đơn vị của ông đã tiến công bắt sống 50 lính phát xít Nhật còn cố thủ tại Quy Nhơn. Sau thắng lợi đó, đơn vị được lệnh chi viện cho mặt trận Nha Trang. Giữa tháng 12.1946, Ban Chỉ huy Quân sự mặt trận liên tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành lập, do Đàm Quang Trung (người dân tộc Tày, tỉnh Cao Bằng) là chỉ huy trưởng, ông chỉ huy phó. Cuối năm 1946, Nguyễn Bá Phát, Chỉ huy phó mặt trận được cử làm Chỉ huy trưởng Trung đoàn 96. Khi quân Pháp quay trở lại đánh chiếm Quảng Nam - Đà Nẵng, Nguyễn Bá Phát cùng với Ban Chỉ huy mặt trận lãnh đạo quân và dân Đà Nẵng thực hiện tốt nhiệm vụ chặn bước tiến, tiêu hao sinh lực địch và làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của chúng.
Ngày 25.5.1947, Nguyễn Bá Phát đã chỉ huy trận phục kích trên đường đèo Hải Vân lần thứ hai, diệt hơn 100 lính lê dương, trong đó có tên đại tá Rôgiê, chỉ huy quân đội Pháp ở miền Trung Đông Dương. Chiến thắng Hải Vân làm rúng động hàng ngũ địch, đây là chiến thắng lớn nhất của quân và dân ta trên chiến trường Liên khu 5 trong năm 1947, làm nức lòng nhân dân cả nước.
Nhắc đến tài cầm quân của Nguyễn Bá Phát, đến hôm nay người dân Hòa Vang không thể quên “trận rút quân thần kỳ của ông Phát” vào dịp Tết năm 1949. Đó là vào ngày 24.1.1949, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bá Phát, bộ đội ta phục kích chặn đánh một đoàn xe lửa và một đoàn xe quân sự Pháp gồm 18 chiếc, có một chiếc thiết giáp dẫn đầu và máy bay yểm trợ trên đường đèo Hải Vân. Đến 12 giờ trưa cùng ngày, ta lại chặn đánh một đoàn xe khác gồm 12 chiếc từ Huế chạy vào. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt ta tiêu diệt trên 200 tên địch, phá hủy 15 xe quân sự và thu nhiều súng trung liên, đại liên và súng trường. Biết quân ta chưa kịp rút lui, quân Pháp huy động 8 tiểu đoàn kéo lên ngã ba Khe Sô, rải quân từ Eo Ngựa và đèo Mũi Trâu đến dọc hữu ngạn sông Trường Định, hòng bao vây tiêu diệt quân chủ lực của ta. Thâm độc hơn, địch còn cho thu hoặc phá hỏng tất cả ghe thuyền của nhân dân tây bắc Hòa Vang và ban lệnh thiết quân luật trên toàn vùng, đồng thời chúng phong tỏa hết các ngả đường. Trước tình hình đó, Nguyễn Bá Phát đã đưa ra một quyết định cực kỳ sáng suốt, ông bàn với Huyện ủy Hòa Vang thực hiện một phương án rất táo bạo: đưa quân chủ lực vượt sông Trường Định về ở lẫn trong nhân dân vùng địch tạm chiếm.
Đêm ngày 27.1.1949, gần như toàn thể đồng bào tây bắc Hòa Vang được huy động vào cuộc rút quân có một không hai này. Để phối hợp với cuộc lui quân, nhằm đánh lạc hướng quân địch, đêm đó các đội du kích Hòa Vang và xã Hòa Liên nổ súng vào các đồn bót chung quanh kiềm chế địch. Nhân dân các xã cánh bắc huyện Hòa Vang còn đánh mỏ, phô trương thanh thế nhằm đánh lạc hướng địch. Các mẹ, các chị lo tiếp tế; các em thiếu nhi canh gác, dẫn đường; thanh niên, dân quân, đi lấy thuyền. Hơn 30 chiếc thuyền được khiêng qua bãi cát dài 3km chuyển về sông Trường Định đưa bộ đội bí mật qua sông. Đồng bào hai bên đường đón bộ đội đi qua, tiếp tế lương thực, tặng nhiều quà bánh... Kết quả, ta đã đưa gần 1.800 bộ đội, du kích, 28 thương binh vượt qua sông an toàn ngay trước vòng vây dày đặc của kẻ thù. Sáng hôm sau, bọn Pháp vẫn tưởng quân ta còn trong vòng vây, nên tiến hành khép chặt, sau khi biết chắc ta đã rút lui an toàn, chúng phải thừa nhận “Việt Minh tài thật!”.
Từ năm 1950, Nguyễn Bá Phát lần lượt giữ các chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108, Tham mưu trưởng Mặt trận Bắc Tây Nguyên, Tham mưu phó, rồi Tham mưu trưởng Quân khu 5.
Từ tháng 7.1964, Mỹ liên tục cho máy bay, tàu chiến xâm phạm bầu trời và vùng biển nước ta. Đặc biệt, đầu tháng 8.1964, tàu khu trục Ma - đốc liên tục hoạt động trong vùng biển giữa đảo Hòn Mê và Lạch Trường, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa khiêu khích và bắn phá thuyền đánh cá của ta. Để bảo vệ chủ quyền trên biển của ta, Hải quân nhân dân Việt Nam dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bá Phát cùng lực lượng Phòng không – Không quân đã bắn rơi 8 chiếc máy bay phản lực của Mỹ, bắt giặc lái, lập nên chiến thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam vào ngày 5.8.1964. Trận chiến gây chấn động dư luận trong, ngoài nước và ngày này được lấy làm ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam. Với thành tích đó, ngày 7.8.1964, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức trọng thể lễ tuyên dương công trạng các đơn vị Phòng không - Không quân và Hải quân. Bác Hồ đã đến dự và biểu dương các đơn vị đã lập chiến công. Dịp này Tư lệnh Nguyễn Bá Phát và Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân Phùng Thế Tài đã được chụp hình với Bác. Một điều đặc biệt đối với Nguyễn Bá Phát là được Bác tặng chiếc đồng hồ đeo tay có khắc tên của Người bằng chữ Hán. Chiếc đồng hồ trở thành kỷ vật quý giá nhất đối với Nguyễn Bá Phát.
Tháng 4.1975, Nguyễn Bá Phát được phong hàm Thiếu tướng. Sau ngày đất nước giải phóng, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát được điều sang Bộ Hải sản. Năm 1986, ông nghỉ hưu và về sống tại TP.Đà Nẵng cho đến khi qua đời vào năm 1993. Với những công lao và đóng góp của mình, Nguyễn Bá Phát được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tên của ông được đặt tên đường tại TP.Đà Nẵng và tên trường THCS tại xã Hòa Liên – quê hương ông.
__________
(Theo cuốn: Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, vị tướng tài trí, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội 2007 và Quảng Nam – những tấm gương cộng sản, Nxb Đà Nẵng 2012).
LÊ NĂNG ĐÔNG