Hỏi đáp chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (tiếp theo)
(QNO) - Hỏi: Tôi sinh năm 1967, đã có quá trình công tác trong doanh nghiệp nhà nước và thời gian tham gia BHXH bắt buộc (tính đến tháng 10.2013) được 30 năm, trong đó có 15 năm làm kỹ sư vận hành đường điện cao áp, được xác định là nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm (danh mục nghề loại IV). Tháng 10.2013, tôi đã chốt sổ BHXH để đi nước ngoài thăm thân và từ đó không tiếp tục tham gia BHXH. Đến nay tôi về Việt Nam sinh sống làm ăn; sổ BHXH tôi vẫn đang giữ. Vậy khi nào tôi có thể đề nghị giải quyết hưởng chế độ hưu trí? Thủ tục, hồ sơ phải làm những gì?
Trả lời: Theo Điểm b, Khoản 1, Điều 54 Luật BHXH năm 2014: Người lao động theo quy định khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc trường hợp: Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.
Đối chiếu với quy định nêu trên, trường hợp của ông, có đủ điều kiện hưởng lương hưu khi ông đủ 55 tuổi (tức vào năm 2022) nếu ông không tiếp tục công tác và tham gia BHXH.
Về thủ tục, hồ sơ: Khoản 2, Điều 108 Luật BHXH quy định về hồ sơ hưởng lương hưu đối với người đang bảo lưu thời gian tham gia BHXH gồm:
a) Sổ BHXH;
b) Đơn đề nghị hưởng lương hưu (theo mẫu).
Ông có thể nộp hồ sơ tại BHXH quận/huyện hoặc tỉnh/thành phố nơi cư trú để đề nghị giải quyết hưởng chế độ hưu trí khi đủ tuổi theo quy định nêu trên.
Hỏi: Trong trường hợp người lao động (NLĐ) bị tai nạn ngoài nơi làm việc; NLĐ đã được mua bảo hiểm tai nạn (bảo hiểm thương mại) thì ai có trách nhiệm phải bồi thường, chi trả trợ cấp cho NLĐ bị tai nạn lao động? Nếu NLĐ không được tham gia BHXH, BHYT thì ai phải chịu trách nhiệm giải quyết chế độ cho NLĐ?
Trả lời: Vấn đề bạn đọc hỏi đã được quy định rõ tại Điều 5 Thông tư số 04 ngày 2.2.2015 của Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn thực hiện chế độ bồi thường, trợ cấp và chi phí y tế của người sử dụng lao động đối với NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 20.3.2015).
Theo hướng dẫn tại Thông tư 04 nêu trên:
1. Trường hợp NLĐ bị tai nạn khi thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động ở ngoài phạm vi cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, nếu do lỗi của người khác (không phải là bản thân NLĐ bị tai nạn) gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn, thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi thường cho NLĐ theo quy định tại Điều 3 thông tư này.
2. Trường hợp NLĐ bị tai nạn khi đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở tại địa điểm và thời gian hợp lý, nếu do lỗi của người khác (không phải là bản thân NLĐ bị tai nạn) gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn thì người sử dụng lao động vẫn phải trợ cấp cho NLĐ theo quy định tại Điều 4 thông tư này.
3. Trường hợp người sử dụng lao động đã mua bảo hiểm tai nạn cho người bị tai nạn lao động tại các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, thì người bị tai nạn lao động được hưởng các khoản chi trả bồi thường, trợ cấp theo hợp đồng đã ký với đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Nếu số tiền mà đơn vị kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trả cho người bị tai nạn lao động thấp hơn mức quy định tại Điều 3, Điều 4 Thông tư này, thì người sử dụng lao động phải trả phần còn thiếu để tổng số tiền người bị tai nạn lao động hoặc thân nhân của người bị tai nạn lao động nhận được ít nhất bằng mức bồi thường, trợ cấp được quy định tại Điều 3, Điều 4 thông tư này.
4. Nếu người sử dụng lao động không đóng BHXH cho NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Luật BHXH, thì ngoài việc phải bồi thường, trợ cấp theo quy định tại Điều 3, Điều 4 Thông tư này, người sử dụng lao động phải trả chế độ BHXH thay cơ quan BHXH cho NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp như sau:
a) Đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp một lần bằng mức quy định của Luật BHXH;
b) Đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng bằng mức quy định của Luật BHXH. Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hàng tháng theo thỏa thuận của các bên.