Tấm gương cách mạng sáng ngời
Chủ tịch Tôn Đức Thắng (nhân dân vẫn thân mật gọi là Bác Tôn) sinh ngày 20.8.1888, trong một gia đình nông dân ở Cù lao Ông Hổ, làng An Hòa, tổng Định Thành Hạ, hạt Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, TP.Long Xuyên, tỉnh An Giang. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng là tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị. Ông từ trần vào ngày 30.3.1980 ở tuổi 92.
Nhà lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng ở Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, TP.Long Xuyên, tỉnh An Giang. Ảnh: Bảo tàng Tôn Đức Thắng |
Chủ tịch Tôn Đức Thắng vinh dự là người đầu tiên được Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương Sao Vàng - huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta; được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Đại đoàn kết; được Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ trao tặng Huân chương Soukhe Bator - huân chương cao quý nhất của Mông Cổ; Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cu Ba trao tặng Huân chương Hữu nghị Cu Ba; Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin - huân chương cao nhất của Liên Xô,… cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.
Người mở đường
Sau tốt nghiệp tiểu học ở trường tỉnh Long Xuyên (năm 1906), năm 1907 Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn với ý định học việc và thực hiện hoài bão cuộc đời. Năm 1909, ông tham gia vận động anh em học sinh lính thủy bãi khóa. Năm 1910, tham gia vận động anh chị em công nhân Sở Kiến trúc cầu đường và nhà ở Sài Gòn chống bọn chủ, cai, đánh đập vô lý và đòi tăng lương. Năm 1912, tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son và vận động học sinh Trường Cơ khí Á châu (Trường Bá Nghệ Sài Gòn) bãi khóa. Thắng lợi của cuộc đấu tranh bãi công đó đã tiếp thêm niềm tin cho ông vào sức mạnh của giai cấp công nhân và đem lại những kinh nghiệm bước đầu trong việc vận động đoàn kết, tập hợp công nhân chống lại bọn tư bản thực dân.
“Cùng với lòng trung thành, tận tụy, lập trường vững vàng, tinh thần dũng cảm bất khuất, ở Bác Tôn còn nổi lên đức tính khiêm tốn, giản dị, chân thành, hòa mình trong quần chúng”. Chủ tịch Hội đồng nhà nước Võ Chí Công |
Năm 1915, Tôn Đức Thắng vào học Trường Cơ khí Á Châu ở Sài Gòn. Năm 1916, ông làm việc trên chiến hạm France. Tại đây, ông đã tham gia sự kiện kéo cờ đỏ trên chiến hạm France ở Biển Đen vào ngày 20.4.1919 và sau đó bị trục xuất khỏi nước Pháp. Năm 1920, ông trở về Sài Gòn, bằng tình cảm yêu mến, sự giác ngộ về Cách mạng Tháng Mười Nga và Nhà nước Xô Viết cùng với những kinh nghiệm trong tổ chức đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đặc biệt là nghiệp đoàn ở Pháp, ông đã cùng với những người bạn chiến đấu, thành lập và lãnh đạo Công hội bí mật Sài Gòn. Đây là tổ chức công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam, đánh dấu sự chuyển biến mới của giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ chưa có tổ chức sang thời kỳ có tổ chức.
Từ khi thành lập, Công hội liên tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn, mà điển hình là cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son (8.1925). Trong những năm 1926 - 1927, Công hội là cơ sở vững chắc cho sự hình thành và phát triển tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, không chỉ ở Sài Gòn mà trên cả xứ Nam kỳ. Khi Kỳ bộ Nam kỳ thành lập, ông được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn, phụ trách phong trào công nhân. Với chức trách được giao, ông đã góp phần tích cực thúc đẩy việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
Sáng ngời đạo đức cách mạng
Tháng 7.1929, Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám Lớn (Sài Gòn), một năm sau thì bị đày ra Côn Đảo. Gần 17 năm bị giam, ông luôn tỏ rõ khí khái của một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; thương yêu đồng chí và những người cùng cảnh ngộ. Ông đã đề xướng việc thành lập Hội cứu tế tù nhân - hội tù Côn Đảo đầu tiên, góp phần quan trọng vào việc thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo, mở ra thời kỳ đấu tranh mới của tù nhân Côn Đảo, thời kỳ đấu tranh có tổ chức, có phương pháp, với mục tiêu cụ thể trước mắt và lâu dài. Đặc biệt, khi chi bộ thực hiện chủ trương biến “nhà tù thành trường học cộng sản”, ông tích cực hưởng ứng, gương mẫu học tập và tham gia truyền bá những kiến thức về lý luận cơ bản và nội dung huấn luyện cho tù nhân…
Liên đoàn Lao động TP.Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức hội thi tìm hiểu về “Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Một nhân cách lớn”. Ảnh: H.ĐÀO |
Ngày 15.8.1945, Nhật đầu hàng Đồng minh; chớp thời cơ, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vùng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tinh thần đó, Đảng ủy Côn Đảo chủ trương đoàn kết các lực lượng tù chính trị trên đảo giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình. Đồng chí Tôn Đức Thắng được cử vào đoàn đại biểu đến gặp Quản đốc Lê Văn Trà buộc phải đồng ý một số vấn đề như: tổ chức chính quyền liên hiệp trên đảo, sửa chữa vô tuyến điện, sửa chữa radio để nghe tin tức, sửa chữa ca nô để đưa đại biểu về đất liền xin ý kiến của Chính phủ...
Cách mạng Tháng Tám thành công, từ Côn Đảo trở về đất liền, đồng chí Tôn Đức Thắng được Đảng và Nhà nước ta tin tưởng giao nhiều trọng trách… Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần, ông được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và ra sức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù tuổi cao, Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn phấn đấu quên mình để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó.
Nhà lãnh đạo mẫu mực
Trong hơn 60 năm hoạt động cách mạng (tính từ sự kiện kéo cờ đỏ trên chiến hạm France ở Biển Đen vào ngày 20.4.1919), Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã có khoảng 30 năm liên tục trực tiếp lãnh đạo tổ chức xây dựng, mở rộng, phát triển Mặt trận đoàn kết dân tộc ở nước ta. Ông đã đóng góp quan trọng và đặc biệt xuất sắc trong việc bồi đắp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tổng kết từ thực tế, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã chỉ ra rằng “không phải như một số đồng chí hiểu lầm rằng công tác mặt trận do ngành mặt trận chuyên trách, mà trái lại, toàn Đảng phải chăm lo”. Vấn đề hàng đầu để đoàn kết toàn dân là phải đoàn kết từ trong nội bộ Đảng và sự đoàn kết đó không chỉ là sự thống nhất tư tưởng, hành động trong thực hiện đường lối của Đảng mà còn là tình cảm tôn trọng, yêu mến, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người đảng viên cộng sản. Đối với những công việc chung, Chủ tịch Tôn Đức Thắng cho rằng, cần phải bàn bạc dân chủ, lắng nghe ý kiến của mọi người.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, với nhiều cống hiến trọn vẹn, liên tục, có hiệu quả cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một trong những nhà lãnh đạo tiêu biểu cho tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, thủy chung, được bạn bè thế giới ghi nhận và tôn vinh. Ông được bầu làm Chủ tịch danh dự Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam; Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới; Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Xô. Trên cương vị nào, Chủ tịch Tôn Đức Thắng cũng luôn chăm lo đến tình đoàn kết quốc tế, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân ta với bè bạn trên thế giới. Trong các hoạt động của mình, ông luôn tranh thủ mọi điều kiện, mọi thời điểm lịch sử để bày tỏ khát vọng hòa bình, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, kêu gọi nhân dân thế giới giúp đỡ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
TRƯỜNG ĐỒNG