Chỉ số nộp thuế của Việt Nam tăng 81 bậc
Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố báo cáo môi trường kinh doanh - Doing business 2018 toàn cầu. Theo đó, mức độ thuận lợi về môi trường kinh doanh của Việt Nam xếp thứ 68/190 quốc gia và vùng lãnh thổ (tăng 14 bậc so với DB2017); chỉ số nộp thuế xếp thứ 86/190 (tăng 81 bậc so với DB2017).
Đây là năm thứ 4 liên tiếp các cải cách về thuế được ghi nhận trong Báo cáo môi trường kinh doanh. Nếu so với các nước ASEAN4 và ASEAN6, Việt Nam đứng thứ 4, sau 3 nước là Singapore, Thailand và Malaysia. Đánh giá về chỉ số nộp thuế, WB đã căn cứ vào các tiêu chí như: Số giờ nộp thuế; Số lần nộp thuế trong năm; Tổng mức thuế suất trên lợi nhuận; Chỉ số sau kê khai (hoàn thuế GTGT, thanh/kiểm tra thuế TNDN). Bốn tiêu chí thành phần này có mức độ quan trọng như nhau, chiếm 25% số điểm DTF để xếp hạng. Theo đánh giá của WB, hầu hết chỉ số này đều có sự cải thiện so với năm trước đó và được WB ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam trong cải thiện thủ tục nộp thuế, cụ thể:
Về thời gian nộp thuế: Trong Báo cáo kết quả môi trường kinh doanh, một số những cải cách về chính sách, thủ tục hành chính thuế mà Bộ Tài chính/Tổng cục Thuế đã thực hiện trong năm 2015 - 2016 vẫn chưa được ghi nhận. Tuy nhiên, những giải pháp cải cách này đã tiết kiệm nhiều công sức, thời gian cho doanh nghiệp (DN). Cụ thể, bỏ bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra kèm theo tờ khai thuế GTGT theo quy định tại Luật số 71; một số quy định đơn giản hóa thủ tục về tính thuế GTGT, TNDN tại Thông tư số 26 và Thông tư số 96 năm của Bộ Tài chính… Về số lần nộp thuế trong năm: được đánh giá là giảm 17 lần, trong đó thuế giảm được 6 lần. Về chỉ số nộp thuế sau kê khai: với những cải cách cơ bản đặc biệt trong quá trình thanh tra, kiểm tra và hoàn thuế GTGT của cơ quan thuế, kết quả đánh giá đối với chỉ số sau kê khai có những bước cải thiện đáng kể, kết quả WB công chỉ số nộp thuế chung của Việt Nam là 86/190 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 81 bậc so với Báo cáo môi trường kinh doanh 2017 và đứng thứ 4 trong nhóm nước ASEAN6.
Theo WB, kết quả này đã khẳng định những nỗ lực cải cách hành chính của ngành thuế; thực hiện công cuộc hiện đại hóa hệ thống thuế, thường xuyên rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa và chuẩn hóa thủ tục hành chính. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và thực hiện các dịch vụ công trực tuyến: trong 300 thủ tục hành chính lĩnh vực thuế, có tới 118 thủ tục hành chính được thực hiện dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3 và 4. Tiếp tục mở rộng thực hiện khai thuế, nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử để tiết kiệm thời gian, chi phí của DN. Tính đến hết tháng 10.2017, hệ thống khai thuế qua mạng và dịch vụ nộp thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố...
Như vậy, với kết quả được ghi nhận, ngành thuế đã hoàn thành mục tiêu chỉ số về môi trường kinh doanh mà Nghị quyết 19-2017/NQ-CP của Chính phủ đã đặt ra, đó là: “Đạt trung bình nhóm nước ASEAN4 về cải cách hành chính thuế gồm 3 nhóm chỉ tiêu: hoàn thuế; quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế; thời gian và kết quả xử lý khiếu nại về thuế”.
VĂN DŨNG