Nhớ ơi là nhớ bánh bèo Quảng Nam
Cậu học trò xứ Quảng mới chân ướt, chân ráo ra đất thần kinh trọ học chưa có o gái Huế nào níu đôi chân luýnh quýnh thì việc đầu tiên là cất vội hành lý rồi lấy xe đạp thẳng xuống Tây Thượng: ăn bánh bèo.
Đến một nơi phong cảnh hữu tình mà đi một mình mất thú, nhưng đang cô đơn biết tìm ai mà bụng lại đang đói, thôi thì chén cái đã, tính sau. Ngôi quán tranh dưới tàn cây râm mát, gió thổi hiu hiu, ghế bàn đơn sơ, nhưng được ngồi dưới mái che cũng thấy ấm lòng.
Một cái trẹt bánh bèo, xếp đầy những chén bánh nhỏ ôi là nhỏ, kèm theo một chén nhỏ dầu hành và một chén nước mắm ớt tỏi pha rất điệu nghệ với nước dùng nấu bằng tôm tươi ngọt dịu, được bày ra trên bàn thật quyến rũ.
Tôi lấy hai ngón tay nhón lấy một chén bánh bèo nhưn tôm chấy, một phối cảnh màu sắc hài hòa, bắt mắt, màu trắng nõn nà của bánh, ôm ấp những nhụy tôm đỏ ửng vàng, thấp thoáng khuôn mặt duyên dáng của nàng con gái thôn Vỹ Dạ má ửng hồng lá trúc che ngang. Chan một muỗng nước mắm, lấy chiếc dao tre khảy nhẹ, da thịt mịn màng của bánh mới chạm vào đã nghe thấy những rung động nhẹ nhàng của mối giao tình với hương vị quê người quyện chặt vào đầu lưỡi khó quên.
Ở bàn bên, một đôi nam thanh nữ tú đang xếp những chén bánh thành cột cao ngất mà không ngã đổ, chồng chén của nàng thấp hơn chừng như cũng e lệ khép nép chẳng khác gì nàng.
Nhìn chén bánh bèo Huế thanh mảnh so với chén bánh bèo nặng trịch quê mình tôi thấy mình “quê một cục”. Phải rồi, một bên là món ăn chơi của người đài các, một bên là món ăn chống đói của người lao động, làm sao tránh khỏi sự đối chọi sâu sắc.
Bánh bèo Quảng đúc trong chén ăn cơm, so với bánh bèo Huế là gã khổng lồ thô kệch, họ ăn chơi, còn mình ăn thực. Một bên để các mệ thời, mệ xơi, ngồi trong mát nơi phong cảnh hữu tình bên các tiểu thư mắt bồ câu chớp chớp, tóc mây buông xõa trên chiếc áo dài trinh trắng, đài trang. Một bên dành cho các nông dân ngồi chồm hổm giữa ruộng đồng, ngoạm một miếng, lủm một miếng, nhai nhồm nhoàm, nuốt vội vội, vàng vàng để dằn bụng, để mau đứng dậy lội xuống bùn cày cho xong buổi sáng, giờ đâu mà nhẩn nha thưởng thức.
Bánh bèo Huế trắng muốt, làn da mỹ nhân chưa hề rám nắng, còn bánh bèo Quảng vừa thô, vừa ngả màu sâm sẫm của người dãi nắng dầm mưa vì thường đúc từ những loại gạo có màu đỏ như gạo lúa trì, gạo lúa đúc (sau này mới dùng gạo trắng).
Bánh bèo Huế, nhưn khô làm bằng tôm tươi chấy tơi, còn vương màu son phấn. Bánh bèo Quảng có hai loại nhưn vừa khô vừa ướt, nhưn ướt bằng tôm tươi và thịt heo bằm nhỏ, ướp gia vị cho vừa ăn, đem xào cho thấm, thêm chút bột sệt sệt, dường như để đẩy đưa cục bột bánh bèo dễ trôi xuống cổ của những người nuốt vội.
Xa quê đã lâu, vào Sài Gòn tá túc, vào những ngày mưa rầm rầm, những chiều nổi tố, những trưa nắng chang, bỏng rát cả lưng, chợt nhớ quê da diết, bỗng dưng cái hồn quê quyện trên đầu lưỡi gợi mình thèm ăn một chén bánh bèo, chén bánh bèo quê một cục, nặng trịch tình quê. Ôi, không nhớ bánh bèo vương giả mà lại nhớ bánh bèo chân chất, cái tình yêu quê cha thật là kỳ lạ, nó ghi khắc sâu vào trong máu trong xương khó mà phai, nó lặng chìm, ẩn nhẫn nơi nào đó, đùng một cái nó hiện ra, thôi thúc mình nhớ, nhớ một cách nóng bỏng, bồi hồi. Con người thật vô tâm, có ở bên thì rẻ rúng, tha hương thiếu nó thì lại nhớ cồn cào.
Không gì hơn, phải ăn một chén bánh bèo Quảng, một chén thôi cũng đủ, một chén thôi cũng đã.
Vợ thương, chia sẻ nỗi niềm, hứa sẽ đúc bánh bèo, một chén bự, không thể nhón bằng hai ngón tay, mà phải bưng bằng cả bàn tay, chén bánh bèo Quảng, cho mình ngồi xổm trên ghế, miệng nhai ngồm ngoàm.
Bèn sửa ca dao một chút:
Ngó lên hòn Kẽm đá Dừng
Bánh bèo thương nhớ quá chừng bạn ôi!
NGUYỄN THIẾU DŨNG