Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào?

THƠM QUANG 02/09/2017 08:55

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đất nước ta từng có nhiều tên gọi. Và bắt đầu từ triều Nguyễn (1804), nước ta mang quốc hiệu Việt Nam. Như thế có phải hai chữ Việt Nam là do nhà Nguyễn đặt ra không? Rất kỳ lạ và lý thú là không phải!

Ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tháng 2, năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long chính thức đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Sự kiện đổi quốc hiệu được diễn ra rất nghiêm trang. Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục đệ nhất kỷ, quyển 23, mặt khắc 12, 13 có khắc: “Ngày Đinh Sửu, vua đem việc cáo Thái miếu. Lễ xong, vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa. Lại hạ chiếu báo các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng, khiến cho đều biết”.

Ý định ban đầu của vua Gia Long cho đổi tên nước là Nam Việt.
Ý định ban đầu của vua Gia Long cho đổi tên nước là Nam Việt.

Sự kiện vua Gia Long công bố cho đổi quốc hiệu Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng lúc bấy giờ. Đó là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam, cũng là một sự khiêm nhường, đúng mực, “biết người biết ta”, trong quan hệ bang giao với nhà Thanh và các nước khác.

Mộc bản triều Nguyễn khắc về việc vua Gia Long cho đổi quốc hiệu Việt Nam vào năm 1804.
Mộc bản triều Nguyễn khắc về việc vua Gia Long cho đổi quốc hiệu Việt Nam vào năm 1804.

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, hai chữ “Việt Nam” được sử dụng với tư cách là quốc hiệu và được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Tuy nhiên, theo các cứ liệu lịch sử thì hai từ Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có bộ sách với nhan đề “Việt Nam thế chí” do Học sĩ viện  Hàn lâm Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi viết đầu thế kỷ 15 cũng nhiều lần nhắc đến hai chữ Việt Nam. Điều này còn được đề cập rõ trong tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngay trang mở đầu tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16 - 17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc).

Dưới vương triều Nguyễn, quốc hiệu Việt Nam tồn tại trong suốt 34 năm (1804 - 1838). Quốc hiệu Việt Nam được sử dụng ít hơn kể từ khi vua Minh Mạng lên nối ngôi và cho đổi quốc hiệu là Đại Nam. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước trong các tác phẩm và các tổ chức chính trị, như: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905), Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (1925) và Hội Việt Nam độc lập đồng minh (1941)… Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa quốc hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất.

THƠM QUANG

THƠM QUANG