Thoại Ngọc Hầu, mở cõi và những chuyện khác
Đã không ít lần lang thang hai bên bờ sông Thoại - núi Sập; đã từng ngồi ghe trên dòng Vĩnh Tế dọc biên giới Tây Nam; đã đặt chân lên “Tân Lộ Kiều Lương” nối Châu Đốc - Núi Sam… Đã lê la hầu khắp những địa danh liên quan đến Thoại Ngọc Hầu - người con của xứ Quảng đã được sông núi mượn tên, nhưng vẫn không thể nào hình dung hết cách đây hơn 200 năm, Thoại Ngọc Hầu và lớp lớp lưu dân đã khai phá vùng An Giang - Châu Đốc sầm uất ngày nay như thế nào…
Kênh Vĩnh Tế đoạn qua làng Vĩnh Ngươn ở TP.Châu Đốc ngày nay.Ảnh: KHÁNH TƯỜNG |
1. Đêm nào ngồi uống cà phê bên dòng sông Thoại vắt ngang TP.Long Xuyên (An Giang), chợt nhớ lần đầu tiên đặt chân đến vùng đất này cách đây đã lâu, một trong những dụng cụ mà tôi nhét nhiều nhất vào hành lý là… thuốc diệt muỗi. Tại chưa đến đó bao giờ nên cứ ám ảnh với mấy câu thơ của Bùi Hữu Nghĩa viết từ thế kỷ 18 khi “Đi thuyền qua Thoại Sơn” rằng: “Một thuyền cầm hạc một mình ta/ Đường hiểm gian nan khắp trải qua/ Núi Sập, sấm rền vang tiếng muỗi/ Vàm Nao, nước chảy đứt đuôi xà…”. Thời Bùi Hữu Nghĩa nghe “Núi Sập, sấm rền vang tiếng muỗi” cũng là thời Thoại Ngọc Hầu tuân lệnh vua về trấn thủ xứ Vĩnh Thanh (một trong 5 trấn của thành Gia Định, trong đó gồm vùng An Giang ngày nay) vào năm 1817. Thời đó, từ An Giang đi Kiên Giang phải vòng ra đường biển chứ chưa có đường sông, đường bộ như bây giờ. Và việc nước đầu tiên mà ông làm là dâng sớ xin vua Gia Long cho đào một con kênh nối rạch Đông Xuyên ở Tam Khê (nay là Ba Bần, thuộc xã Vĩnh Trạch) với ngọn rạch của Rạch Giá ở Sóc Suông (Kiên Giang).
Lịch sử chỉ ghi chép về sự kiện mở đầu cho công cuộc khai phá miền An Giang – Châu Đốc kinh thiên động địa của Thoại Ngọc Hầu rất ngắn gọn kiểu “kênh rộng 50m, dài hơn 30km, khởi đào từ năm 1818 và hoàn thành sau đó chỉ 1 tháng với hơn 1.500 nhân công”, nhưng tầm vóc và vị trí quan trọng của nó trong việc giao thông, vận tải và phát triển nông nghiệp, đời sống kinh tế, văn hóa của người dân thì đến nay vẫn còn “trên đường phát triển” khi hai bên bờ kênh hiện nối đuôi nhau những làng mạc, đô thị sầm uất, trù phú nhất nhì miền Tây. Nên không phải ngẫu nhiên mà sông núi mượn tên ông – Thoại Ngọc Hầu. Khi kết thúc việc đào kênh, triều đình đã cho phép lấy tên ông để đặt tên cho kênh mới là Thoại Hà – sông Thoại. Và để đánh dấu cho công trình trọng đại trong đời, Thoại Ngọc Hầu đã cho soạn một bài văn khắc vào bia đá. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), ông long trọng làm lễ dựng bia và khánh thành miếu thờ sơn thần tại triền núi Sập - nơi kênh Thoại Hà đi qua. Thú vị là ngôi miếu đó nay đã thành đền thờ ông làm Thành hoàng. Bia đá với đầu bia chạm khắc hai chữ Thoại sơn, nay là một trong 3 di tích lịch sử, loại bia ký dưới chế độ phong kiến còn lưu lại.
2. Tôi đã đi qua những địa danh Vĩnh Ngươn, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia, Vĩnh Tế, Vĩnh Xương, Vĩnh Hậu, Vĩnh Trường… dọc biên giới Tây Nam bằng cả đường bộ và thủy. Đó là những tên làng được lưu dân lập mới để trấn giữ biên cương dọc theo kênh Vĩnh Tế song song với biên giới Campuchia, bắt đầu từ bờ tây sông Châu Đốc (An Giang) nối giáp với sông Giang Thành của Hà Tiên (Kiên Giang) dài gần 100km - một công trình thế kỷ của thời điểm đó được Thoại Ngọc Hầu chỉ huy đào sau đó một năm (1819). Và lần này thì đến lượt vợ ông - bà Châu Thị Vĩnh Tế được sông núi mượn tên khi vua Minh Mạng cho phép lấy tên bà đặt cho tên kênh, cho khắc bia Vĩnh Tế sơn dựng trên núi Sam để đời đời lưu công tích; rồi công trình được chạm khắc lên Cửu Đỉnh trong Đại Nội Huế để tượng trưng cho sự miên viễn của vùng biên địa này.
Sử liệu còn đó những con số ám ảnh, rằng kênh Vĩnh Tế dài gần 100km, rộng 25m, sâu 3m - con sông đào lớn nhất nước ta thời phong kiến; được đào trong thời gian 5 năm, trong đó có 4 lần hoãn đào vì nhiều lý do, với tổng cộng nhân lực được huy động lên đến hơn 80.000 lượt người gồm người Việt và Chân Lạp (Campuchia), chủ yếu là đào đắp bằng tay và dụng cụ thô sơ. Một con số khó tin khi nhớ lại An Giang - Châu Đốc thời ấy trâu nước nhiều hơn người và hình ảnh “Núi Sập, sấm rền vang tiếng muỗi”. Nhưng những con số đó vẫn chưa ám ảnh bằng những dòng chữ tượng trưng “mặc dù có chế độ cấp phát gạo rõ ràng, nhưng do đào kênh ở giữa chốn đồng không mông quạnh, nhiều sơn lam chướng khí, nên việc ăn uống, thuốc men chữa bệnh thảy đều thiếu thốn. Vì vậy số người chết vì bệnh tật, kiệt sức, vì thú dữ như sấu, rắn rết… lên đến hàng ngàn người. Đó là chưa kể con số tử vong của những người bỏ trốn, phải vượt sông Vàm Nao bị cá dữ ăn thịt, sóng gió nhấn chìm…”. Hàng ngàn người là bao nhiêu người? (có tài liệu của người Pháp ghi là 7.000 người). Có bao nhiêu người bỏ trốn vì không chịu được đói khát đã làm mồi cho cá dữ ở sông Vàm Nao? Họ là những ai? Họ từ đâu đến? Những câu hỏi cứ quặn thắt khi đêm nào thao thức ở sông Vàm Nao, giờ không còn cá dữ nhưng vẫn là sông dữ với những hố tử thần, những mùa sạt lở đã và đang nuốt trôi không biết bao nhiêu đất đai, nhà cửa. Đêm nào mất ngủ ở bờ kênh Vĩnh Tế đoạn giữa lòng TP.Châu Đốc sầm uất, chỉ là một mái chèo khua nhẹ thôi lòng cũng vẳng nghe đâu đó những lao xao đèn đuốc như sóng dậy của những lưu dân đi mở cõi năm nào.
Đêm nào đó trăng non ở nghĩa trủng hoang lạnh đến rợn người dưới chân núi Sam, gần khu lăng mộ Thoại Ngọc Hầu. Đây là nơi quy tập những đống xương tàn của những người ngã xuống trong quá trình đào kênh, ban đầu được chôn cất rải rác ở hai bên bờ kênh. Cảnh vật lúc ấy sao mà giống những câu mở đầu trong “Văn tế nghĩa trủng” rất cảm động để chiêu hồn mà Thoại Ngọc Hầu từng tế đọc: “Trời xanh thẳm mồ hoang lợp lợp/ Trăng soi nhòa mấy lớp bia tàn/ Mây che bao nấm đất vàng/ Sương sa sao dọi gò hang đổi dời/ …Đào kênh trước mấy kỳ khó nhớ/ Khoác nhung y chống đỡ biên cương/ Bình man máu nhuộm chiến trường/ Bọc thây da ngựa gởi xương xứ này/ Quê cách trở lấy ai hộ tống/ Sống làm binh thác chống quỷ ma/ Than ôi ai cũng người ta/ Mà sao người lại thân ra thế này”…
3. Trong khu lăng mộ Thoại Ngọc Hầu dưới chân núi Sam gồm mộ ông và hai người vợ là Châu Thị Vĩnh Tế và Trương Thị Miệt, phía bên phải còn có 14 ngôi mộ khác, được chôn thành một cụm liền kề nhau, tất cả đều không có bia nên không rõ những người nằm dưới mộ là ai. Và đây cũng là ví dụ về sự mù mờ của lịch sử khi có tài liệu chép rằng đó là những vị quan to, thân cận của Thoại Ngọc Hầu đã nằm xuống trong quá trình đào kênh Vĩnh Tế nên được ông quy tập về đây cho “ở chung”. Nhưng cũng có tài liệu nhìn vào những mô thức mộ cao thấp vuông tròn không giống nhau rồi suy đoán đó là mộ của những đào kép thuộc gánh hát bội mà lúc sinh tiền Thoại Ngọc Hầu lập ra để mua vui cho quân binh. Và dường như, gánh hát này đã bị chìm ghe chết tập thể trong một lần đi lưu diễn. Là ai, thì họ vẫn còn may mắn hơn rất nhiều những “mồ hoang lợp lợp” khi hàng ngày còn được hậu sinh nhang khói…
Đêm nào đó tôi lang thang trong khuôn viên đền thờ bà Chúa Xứ nguy nga tráng lệ cũng dưới chân núi Sam được lập từ năm 1820. Tương truyền là để đáp ứng nhu cầu tâm linh của những lưu dân đến đào kênh phải cư ngụ nơi ma thiêng nước độc, bà Châu Thị Vĩnh Tế - vợ cả của Thoại Ngọc Hầu - đã thay chồng cho xây dựng một ngôi miếu bằng cây lá sơ sài và tìm mọi cách cho mang một ngôi tượng cổ trên đỉnh núi Sam xuống đưa vào miếu và tôn thờ như một vị nữ thần (bà Chúa Xứ) linh thiêng luôn hộ trì, ban phước lành, dù đây vốn là tượng nam thần Vinus của nền văn hóa Óc Eo. Cạnh đền thờ bà Chúa Xứ là Tây An cổ tự - cũng do Thoại Ngọc Hầu lập ra thời gian này. Giờ đây, cả ba tạo thành một cụm di tích lịch sử cấp quốc gia, mỗi năm thu hút hơn 4,5 triệu du khách đến hành hương, chiêm bái, cầu xin sức khỏe, tài lộc… Riêng đền thờ Bà Chúa Xứ, chỉ tính trong năm 2016, số tiền mà khách thập phương “cúng bà” thôi cũng đã khó tin: Hơn 114 tỷ đồng, chưa kể hiện vật và ngoại tệ!
Thiên tài và khoa học là những chữ dùng của người Pháp sau này đánh giá về Thoại Ngọc Hầu khi ông cho đào các con kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế… để dẫn nước, giao thương, bảo vệ cương thổ… cùng với việc lập làng để khai phá một vùng Tây Nam rộng lớn của Tổ quốc. Nhưng dẫu có thiên tài đến đâu, Thoại Ngọc Hầu chắc hẳn không bao giờ hình dung ra được một vùng Tây Nam mà vua Chân Lạp ngày nào cắt dâng lên nhưng phải đến 3 lần chúa Nguyễn mới chịu nhận, lại phải đánh đổi bằng máu xương của lớp lớp lưu dân để khai ấp, lập làng, một ngày nào đó lại biến thành những đô thị sầm uất như bây giờ. Có nhìn xa đến mấy, Thoại Ngọc Hầu cũng không nghĩ rằng một ngày nào đó của hơn 200 năm sau, khu lăng mộ của chính ông và những lưu dân đào kênh Vĩnh Tế, đền thờ Bà Chúa Xứ và Tây An cổ tự do ông và vợ lập ra lại trở thành hạt nhân du lịch của TP.Châu Đốc trên miền biên viễn…
Phóng sự của KHÁNH TƯỜNG