Trâu ơi ta bảo trâu này...

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG 01/04/2017 10:45

Nhà văn đầu tiên viết một tiểu thuyết có tiêu đề “Con trâu” chính là Trần Tiêu của Tự lực văn đoàn vào những năm 30 của thế kỷ trước. Không gian truyện chỉ loanh quanh ở làng Cổ Am, Hải Dương quê ông. Đó là một làng chiêm trũng trồng lúa quanh năm. Sự khổ ải của con trâu là một hình tượng nhắc đến kiếp lầm than của nhà nông, của con người. Nhân vật bác Chính với mơ ước khá giản đơn nhưng khó thực hiện được: đủ ăn đủ mặc.

Với nhà nông “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Ảnh: PHƯƠNG THẢO
Với nhà nông “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Ảnh: PHƯƠNG THẢO

Đến năm 1952, nhà văn Quảng Nam Nguyễn Văn Bổng tức Trần Hiếu Minh, cũng lấy “Con trâu” là tựa một tiểu thuyết của ông. Năm 1954, “Con trâu” được Giải thưởng Phạm Văn Đồng. “Con trâu” của Nguyễn Văn Bổng lấy khung cảnh là cuộc kháng chiến chống Pháp ở vùng nông thôn Núi Đất. Lúc sinh thời, nhà văn Nguyễn Văn Bổng từng tâm sự: “Tôi sinh ra và lớn lên ở nông thôn, nhưng phần lớn tuổi thanh niên lại đi học ở Huế... Hồi viết “Con trâu”, tôi chưa từng được cầm đến cán cuốc, tay cày. Tôi chưa phân biệt được ruộng lúa tẻ với ruộng lúa nếp... Những hiểu biết về nông thôn là do cái vốn tôi có được từ những ngày đầu lăn lộn trong kháng chiến, từ những ngày tôi mang cái túi bên người, đi khắp các chiến trường trong tỉnh để viết tin bài cho báo Chiến Thắng”. Cho nên có người gọi “Con trâu là đầu văn nghiệp” của ông!

Xem ra, cả Trần Tiêu và Nguyễn Văn Bổng đều quan niệm con trâu như một biểu tượng của sự gian khổ mà nông dân phải chịu đựng kể cả trong xã hội phong kiến lẫn chiến tranh. Con trâu ấy gắn liền với cuộc sống của người dân và nền sản xuất lúa nước truyền thống từ bao đời. Mà có hiểu được người nông dân mới có thể viết về họ!

Đã nói đến con trâu và văn minh lúa nước thì không thể tách nó khỏi lịch sử, cả chính sử và huyền thoại của đất nước. Cả trong ca dao tục ngữ Việt…

Trâu là tên gọi khác của hồ Tây với huyền thoại Ngưu hồ và sự tích Kim Ngưu gắn liền với vùng chiêm trũng sông Hồng được kể trong Lĩnh Nam chích quái và giấc mơ sinh được 10 người con trai để hưởng phúc… Những kết quả khai quật trâu hóa thạch cách đây hàng chục vạn năm của ngành khảo cổ ở Cao Bằng, Hòa Bình, Hà Tĩnh hay xương trâu bò nhà được tìm thấy trong các di chỉ đá mới và đồng thau cách đây khoảng 5 nghìn năm ở Tràng Kênh (Hải Phòng), Tiên Hội, Đình Chàng (Hà Nội), Đồng Đậu (Phú Thọ) và nhiều nơi khác mà giáo sư Trần Quốc Vượng từng nói như đinh đóng cột: “Đầm lầy, môi trường sinh thái của loài trâu, cũng là quê hương của loài lúa!”. Đó chính là nền văn minh lúa nước Đông Nam Á mà con trâu từ rừng đã được ông cha ta thuần hóa cho công việc của nhà nông. “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” hoặc “Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn”… có lẽ phát sinh trong hoàn cảnh này.

Ta lại có những chuyện từ lịch sử mà nhiều thế hệ học trò đã học từ thời phổ thông: Yết Kiêu đời nhà Trần nhờ nuốt mấy sợi lông trâu biển (thủy ngưu) mà có tài bơi lặn dưới nước, đã góp công vào việc đánh ngoại xâm. Đinh Bộ Lĩnh cùng các bạn mục đồng cưỡi trâu, dùng cờ lau tập trận ở Hoa Lư. Lê Đại Hành lùa trâu cùng quân sĩ đứng dày đặc trên hai bờ sông Hoàng Long để đón chào và dọa dẫm sứ thần nhà Tống. Trâu được cho uống rượu say và đuổi xông phá tan đội hình quân địch hay trâu cột lửa sau đuôi xông vào trại giặc trong những trận hỏa công...

Hồi nhỏ tôi cũng từng theo đám bạn giữ trâu trên đồng, gánh trạc lên rừng hốt cứt trâu về cho cha mẹ ủ phân. Nhờ vậy thuộc được nhiều bài hát của mục đồng mà sau này lớn lên đã hiểu ra đó là những bài đồng dao như cái vốn đầu đời về âm nhạc của tuổi thơ. Để “Gọi nghé lạc bầy…”

“Huê hà huê hưởng

Cà cưỡng bay cao

Chóc mào bay thấp

Chim bay về ấp

Đỏ mỏ về trời

Huê… huê…

Huê con nghé nhỏ

Lạc đàn theo chó

Lạc ngõ theo trâu

Nghe mẹ rống đâu

Đâm đầu mà nhảy...”

 Những đêm trăng lại kéo nhau ra đường chơi trò u mọi, rồi đến sân những nhà giàu có coi trâu đạp lúa. Có hôm còn sang tận những làng xa coi trâu mang ách kéo che ép mía ở những lò nấu đường và kiếm được ít đường non để chia nhau trên đường về…

Hình ảnh và kỷ niệm về con trâu ở làng quê lúc nào cũng mãi sống động như vậy. Chúng đã níu lại gần gũi hơn những kiến thức về con vật to lớn nhưng hiền lành này từ trang sách đã đọc thời niên thiếu. Tôi cũng có một kỷ niệm những năm sau chiến tranh: phụ trách một tổ công tác trong ngành nông nghiệp ra tận Thanh Hóa, Nghệ An và có lúc lên tận Lạng Sơn để chở hàng vạn con trâu về Quảng Nam để “tăng cường sức kéo cho vùng mới giải phóng” theo chủ trương lúc đó. Nhờ vậy cũng học lóm được cách xỏ mũi trâu, cho chúng uống nước, biết cách chữa trị vài bệnh thông thường cho trâu và nhất là làm sao để đưa cả một đàn trâu lên thùng xe tải… Mỗi chiếc xe “ba lua” chở đúng 10 con trâu. Chúng đứng theo chiều ngang thùng xe trên suốt cả ngàn cây số và rất ngoan ngoãn!

Bây giờ làng dần lên “đô thị hóa”, nông nghiệp đã nhiều phần được cơ giới hóa, nhưng vẫn còn đó ruộng đồng và “con trâu đi trước cái cày theo sau” ở nhiều vùng nông thôn, nhất là các vùng trung du bán sơn địa. Nhưng tôi đã ít nhìn thấy những đứa trẻ chăn trâu (cả chăn bò), có chăng chỉ là những ông cụ bà cụ chăn dắt trâu bên những bờ kênh, vạt cỏ bên đường hay trên lưng đồi xóm núi. Tuổi thơ giờ đến trường (hay ngồi trong những quán net!) đã quên mang theo những khúc đồng dao, cánh diều và tiếng sáo ngân nga của lớp người cũ, như tôi!

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG