20 năm thôi chắp tay lạy trời

TRUNG VIỆT 25/01/2017 10:44

(Xuân Đinh Dậu) - Nước có thể cuốn phăng tất cả nhưng cũng có thể lưu giữ những giấc mơ buồn chát để khai sinh những giấc mơ mới, tạo ra những truyền kỳ của đất. Ngăn hồ Đông Tiển, nói không ngoa, là truyền kỳ của vùng tây Thăng Bình.

1. Ngả người ra ghế, ông Lê Khắc Nga thiếu điều đánh sượt, rồi ông co chân lên ghế, chỉ tay vào vòi nước máy: “Có được rứa, cứ nghĩ mà kinh anh ơi”. Có người nói với tôi rằng, mình dạy con cái, nếu như không cần thiết thì hãy tằn tiện nước, nó ngạc nhiên cãi nước rẻ mà, không hề rẻ đâu, nước sạch mắc lắm, có thể nhịn ăn chứ không có nước là chết. “Trầy trật sống, mà từ đời ông bà chứ phải riêng mình đâu”. Ông làm Trưởng thôn Vinh Đông này qua 5 đời chủ tịch huyện, nên cái cực của xã Bình Trị, cực lây cả huyện Thăng Bình khi không có nước tưới, ông rành lắm. “Mùng Tám tháng Tám không mưa/ Nhà nông cày bừa dọn dẹp đi buôn”.

Hồ Đông Tiển. Ảnh: TRUNG VIỆT
Hồ Đông Tiển. Ảnh: TRUNG VIỆT

Nước không có thì không bắc mạ được, bỏ ruộng luôn, mà có buôn bán chi, tiền mô, rồi tháng năm chờ sao rua mang chủng, gieo đại, tháng mười gặt, mỗi sào được 15 ang là sướng kinh hồn rồi. “Anh có tin là sáng xuống thăm ruộng, cuốc thử thấy đất êm, bụng mừng rơn là gieo được, về ăn cơm gánh giống xuống, mặt trời lên rồi, hắn cứng queo. Chỉ biết trông trời mưa, chỉ có tháng Giêng là lúa không bị hóp vì nắng ít, nhưng trổ mà trúng mưa thì coi chừng hư, không mưa thì bỏ ruộng, cứ rứa xà quần. Ai có thân thế thì đi Sài Gòn, nhưng cũng phải mò về, bởi nói rứa cũng phải làm, nhổ cấy cày gặt, bốn công trên sào, người đâu mà làm”. “Giếng đào được không?”. “Lòng đất đầy đá, chỉ được 6m là méo xẻng”.

Ngao ngán như ùn kéo về trên gương mặt ông. Nói đâu xa, hồ Đông Tiển có nước đó, nhưng hơn 20ha đất khô cứng, cùng 200 hộ sống sát mép hồ, còn nước dưới hồ như chơi mình, ngó như ngó, huống hồ từ đây vô đó hơn cây số. Tôi nhắc chuyện trận hạn nặng năm 2007, ông à, phải rồi, trận nớ tỉnh báo động, định đưa nước về cho dân uống, khát như lửa trong cổ họng, văn bản xuống tới thôn là ráng hai bữa nữa có nước uống, ai ngờ hai ngày sau đó mưa!

 Không nước tưới, dân làng dạt đi làm ăn, thời điểm trước năm 1990, hai chỉ vàng là xây được cái nhà, nên thanh niên tuôn lên Đồng Giá làm vàng, mò lên Phước Sơn đào hầm mót sái, ông Nga cũng đi. Đi bòn vàng cũng đỡ hơn làm ruộng, đổi lại có người toi mạng do sập hầm, sốt rét, nhưng chưa kinh bằng rước ma túy về. Ôi thôi điểm nóng ma túy nhất tỉnh là Bình Trị. Ông Nga nhẩm ở thôn này, đã có 50 người qua đời do HIV/AIDS, đau khổ biết bao nhiêu nhưng làm sao dừng lại thì bó tay…

Chủ tịch UBND xã  Lê Viết Mãnh cho hay, trước khi có nước thủy lợi hồ Đông Tiển, cả xã có hơn 50% số hộ đói nghèo. Ba năm sau khi ngăn hồ, năm 2010, đói nghèo còn 23%; nay cả xã còn 7% số hộ đói nghèo;  năng suất lúa tăng 60 - 70 ang/sào, gấp ba bốn lần thuở trước; dịch vụ nở rộ; điện đường trường trạm có hết; đời sống văn hóa tinh thần của bà con, như phép kéo theo tất yếu, phát triển liền. Năm 2008 thu nhập bình quân đầu người 7,5 triệu đồng, thì 2015 đã là 25 triệu đồng, thu ngân sách  của xã hơn 400 triệu đồng...

2. Tôi đã hai lần lội vào thôn này, chứng kiến một thanh niên quằn quại những ngày cuối đời, nhà chỉ còn đúng cái mền rách che thân. Chừ, đọc bản tin nào liên quan tới ma túy, nhớ lại chưa hết rùng mình. Tôi mang con số ảm đạm trên về hỏi một lãnh đạo Công an tỉnh, anh này ngao ngán rằng, điểm mấu chốt là không có nước tưới, đói quá nên phải ra đi, đã nhìn tệ nạn thì phải truy cho ra cái gốc. Kẻ không đi vàng thì ở nhà đốn củi, làm thuê cho người ta, bứt mây, cắt rau, đi mót. Giếng đào khó, nên  làm chi có chuyện mỗi nhà một cái, phải 5 - 7 hộ xúm lại đào, vô núi gánh đá về xây.

Ông Nga vẫn chưa dứt mạch ám ảnh buồn não: “Tôi nhớ năm 1983, xách cái bao ra ruộng, mót cắn răng cũng chẳng có hột mô, đi  mót 3 công mới được ký lúa. Mà cái thời hợp tác xã, nghĩ lại não nùng, cái gọi là lúa điều hòa công điểm là thứ bậy bạ hết sức, bởi nó tạo ra thói xấu, chụp giựt, mua bán dối gian, trăm sự cũng do đói, bần cùng sinh đạo tặc. Nhà tôi cũng đói dài, nên mình cũng loay hoay như bà con, vợ và tôi làm thêm bằng nghề tráng mỳ gia công cho người ta, 10 lon gạo lời được 4 ngàn…”.
Chiều về, tôi hỏi anh Nguyễn Hữu Hiệp, nguyên Chủ tịch UBND huyện Thăng Bình thời điểm đó. Nhớ lại mà anh không giãn được cái nhăn trán mệt mỏi, rằng tau khổ không chi bằng, dân đói không có nước đã đành, nhưng thêm nạn giải quyết quy hoạch treo bởi có thông tin khởi công làm hồ Đông Tiển nên án binh bất động hết. Tau nói với ông Lê Trí Tập, hồi đó làm Chủ tịch UBND tỉnh, là dân Bình Trị như rứa, ở ngay hồ mà chết khát, chừ chỉ còn cách đắp hồ, ngăn đập lấy nước cứu dân thôi. Ông Tập lắc đầu, muốn ngăn hồ, tiền cả núi.

Tau không nản, nói lần hai, để dân khổ thì mình không yên được. Ông gật. Rồi ông Nguyễn Xuân Phúc lúc đó là Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng tau ra Bộ NN&PTNT... Ngày khởi công cũng đến. “Tôi nhớ chuẩn bị khởi công - ông Nga vẫn giọng trầm trầm - vận động bà con hiến đất cho 200 hộ với gần 700 nhân khẩu từ lòng hồ ra ở. Dân Vinh Đông hiến liền, họp họ phát biểu chúng tôi thách Nhà nước, nếu làm được, chịu mất nửa ruộng. Người không hưởng thủy lợi như ở Bình Định cũng hiến. Làm đập xong, họ hiến tiếp để làm kênh mương, tính ra nửa thôn này hiến gần 8ha”. Họ thách là đúng. Từ thời Pháp đến chừ, có ai làm được đâu, dân chịu đói khát khi túi nước lửng lơ như “rế treo, mèo nhịn”. Nên khi khởi công, dân  mừng muốn chết, nói như ông Nga là tưởng như mơ. Tôi đã tìm coi lại mấy bức ảnh lúc đó, 20 năm rồi, nhưng như còn nguyên nỗi hân hoan trên mặt người, cờ xí người xe rộn ràng, nhiều bà cõng con đến bất chấp nắng nôi.
3. Tôi hỏi câu lãng nhách: “Đỡ không?”. “Răng không chứ. Có nước là chủ động lịch thời vụ, làm lúa, màu, đói giảm dần, thanh niên bớt đi  làm vàng, ma túy bớt thấy, chừ chỉ còn mấy đứa sơ sơ thôi”. Nào có dễ dàng chi, đổi này nọ thì dễ, đổi phận người khó thay. Hàng trăm năm rồi, chỉ biết ngửa mặt cầu trời mong mưa, mô dám nghĩ có ngày kênh mương chạy qua nhà mình, trời đánh cũng không dám tính chuyện từ mỗi năm làm một vụ chuyển qua hai vụ rồi chăn nuôi, trồng rau màu. À mà anh hỉ, ông nói thêm, lúc nớ có trồng mía cho nhà máy đường, nhưng rồi anh biết đó, cuối cùng cũng úp om. Những chuyện buồn tủi thuở nước quý hơn vàng cứ chèn đi móc lại lúc rời rạc, lúc cuộn chảy, như thể nó làm nền cho cuộc chuyển dời vĩ đại của đời dân Bình Trị.

Ngăn hồ Đông Tiển là cơn địa chấn của người vùng tây Thăng  Bình, là dấu chấm cuối cùng cho những thiên di có thực lẫn mơ của dân Bình Trị. Qua rồi những xác xơ, những ngày nấu cháo rau lang, qua hết những đau khổ kiệt cùng, cũng tan rồi cơn lốc HIV, ma túy. Ông Nga tiễn khách, chỉ  mấy chậu cây cảnh, lại như bùi ngùi chuyện cũ: “Hồi nớ sân nhà ai cũng trồng sắn, ăn không có, cảnh cọt chi…, à mà tôi quên, lúc đó dân không chết đói cũng nhờ hồ Phú Ninh”. “Là răng?”. “Thì ở Bình Chánh có nước Phú Ninh nên lúa khá hơn, dân tôi xuống đó làm thuê, đi mót”.

Tôi phóng xe ra hồ Đông Tiển, nước xanh như ngọc, cây lá giữa hồ bặt im trong nắng sớm, tịnh vắng như tịch cốc ở đầu nguồn xa xôi. Bàn tay dân Bình Trị, 20 năm rồi đã vốc nước hồ để tắm tưới, hết rướn lên cao mà cầu khẩn chắp tay cầu mưa xuống…

TRUNG VIỆT

TRUNG VIỆT