Âm vang cố quận: Ngôn ngữ Quảng Nam
|
…Người ta từng khen Bùi Giáng là một tài hoa thi ca Quảng Nam. Thế nhưng, ông vẫn viết một cách ngược đời: “Thơ hay thiên hạ làm rồi/ Chỉ còn thơ dở cuộc đời cho tôi/ Dụm dành dở ẹc rã rời/ Dồn trăm năm lệ điệu cười vu vơ”.
Đất Quảng Nam là vùng đất giàu phương ngữ… Tổ phụ người Quảng Nam vốn từ Thanh - Nghệ vào, mang theo vốn phương ngữ Thanh - Nghệ truyền xuống các đời con cháu. Vốn phương ngữ ấy lại giao thoa với phương ngữ của người Chămpa bản địa, hình thành một hệ thống phương ngữ đặc sắc.
…Ông Bùi Giáng đi xa Quảng Nam rất lâu. Thế nhưng, từ Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột, Màu hoa trên ngàn cho đến những tác phẩm về sau này, ông vẫn tích cực dùng phương ngữ quê nhà. Đó lại là một âm vang cố quận khác trong thơ Bùi Giáng, dù chỉ là âm vang về hình thức diễn đạt.
Thơ của ông phong phú những phương ngữ đất Quảng Nam: “Dở òm, dở ẹc, dở om/ Dở bùng ra dở sớm hôm sụt sùi/… Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên đi xuống đã đời du côn”.
Ngay trong tựa đề Ngàn thu rớt hột, Bùi Giáng cũng dùng âm ngàn chứ không dùng âm nghìn, dùng âm hột chứ không dùng âm hạt. Nghìn hay hạt là cách phát âm ở phía Bắc; người Quảng Nam chỉ phát âm là ngàn hay hột. Hỏi: Ngàn thu rớt hột là gì? Người giàu tưởng tượng thì nghĩ tâm hồn Bùi Giáng mẫn cảm, nỗi hoài niệm cứ như hạt mưa ngàn thu rơi xuống. Hỏi Bùi Giáng, ông đáp: “Hột ở đây là phân dê! Phân dê vốn từng cục (hột) nhỏ; đi đến đâu chúng cũng… bậy ra đến đó”. Ông đi giữ dê hai năm, thấy bầy dê bậy ra mọi nơi cho nên gọi là Ngàn thu rớt hột.
Nghĩa là Bùi Giáng đùa giỡn với ngôn ngữ, ngay trong cái tựa của tập thơ. Cho nên, nói tới việc đùa giỡn với ngôn ngữ trong thơ ông là nói tới cách ông dùng những phương ngữ làm chất liệu và những thủ pháp ông dùng tác chiến thơ.
…Trí liên tưởng - một năng lực tâm lý của con người, nơi Bùi Giáng rất hay. Từ một chữ này, ông liên tưởng ra ngay một chữ khác. Viết tới mình, ông nghĩ ra mẩy; viết tới gan, ông nghĩ ra tim; viết tới mai, ông nghĩ ra mốt; viết tới ban đầu, ông nghĩ ra ban đuôi; viết tới cây, ông nghĩ ra cối… Văn chương, ngữ nghĩa cứ vậy mà đi, thoải mái trong trạng thái liên tưởng bất tuyệt: “Em tận hưởng phù sinh mai ra mốt/ Từ hy hư hô hấp tốt ra tươi…/ Cây và cối, bầu trời và mặt đất/ Đã nhìn tôi dưới sương sớm trăng khuya/ …Em chẳng cùng tôi ngó nữa trăng/ Thì thôi, đuôi đứt con thằn lằn/ Mần răng mà ngủ đêm nay được/ Rệp đốt không bằng nhớ đốt gan (và tim)”.
Trí liên tưởng của ông đi qua những cõi bờ khác rất lạ. Nó làm thay đổi hẳn chức năng của từ ngữ và sự thay đổi đó lại tạo ra một ngữ nghĩa mới lạ. Thí dụ từ động từ O bế, ông liên tưởng đến danh từ O (cô, theo cách gọi miền Trung) và ông viết luôn hai chữ O bồng - bởi hai động từ bồng và bế rất gần nhau. Trong trường hợp này, o bồng là một câu trọn nghĩa dù nó phát xuất từ trí liên tưởng từ động từ o bế: “Dạ thưa, vâng ạ vâng ừ/ O bồng, sương đục mây lừ đừ cong”.
Khi bắt gặp một phụ âm đầu nào đó, ông tác chiến câu thơ bằng cách dùng các từ láy lại phụ âm đầu, dẫn người đọc đi vào một thế giới dài dằng dặc. Nhiều khi, người đọc phải nín thở đọc cho hết hệ thống ngôn ngữ dài ấy. Nụ cười (thầm) từ đó mà ra: “Thưa em, lời lẽ lạc lầm/ Lưu ly lung lạc sưu tầm lem nhem/ Lý ôi! Có lẽ mỏi mềm/ Toàn nhiên mỏi mệt êm đềm ra đi”. Và: “Anh chạy về Nam Mỹ để nhìn em nằm dưới bóng cây đi bên lá nhánh suối nước sầu em lội xuống sóng vui. Chân em trắng (không thấy bàn chân ở dưới nước) đầu gối tròn như măng ngọt mía mưng con chuồn chuồn đậu ngọn”.
Nhiều năm đọc thơ ông, tôi tìm ra một điều khá thú vị là ông rất thích phụ âm đầu L. Có lẽ phụ âm này êm đềm về mặt phát âm, gợi ra một cái gì đó thân mật hồn nhiên y như ta nghe một ca khúc cung thứ (mineur) trong âm nhạc. Gặp một chữ phụ âm đầu L, ông kéo ra trong câu thơ cả lò, cả dọc: “Lời lau lách làn luân lưu sương đượm”. Và: “Liễu hoa lai láng lẫy lừng/ Tuyệt nhiên huyết lệ tưng bừng tuôn ra”.
Cũng như nhiều người Quảng Nam khác, Bùi Giáng là người học giỏi, nói thì có thể phát âm sai một vài từ nhưng viết thì không sai chính tả. Bà con quê nhà chúng tôi thường phát âm sai hai âm En và Ăn. Chính tôi cũng bị bạn bè thân yêu giễu cợt là anh “Quoảng Noam en mẹn!”. Thế nhưng, cái quán tính tiệm cận giữa văn nói và văn viết ấy đi vào trong thơ ca, hò vè Quảng Nam từ lâu lắm rồi. Và người đọc khéo nhận ra tính tiệm cận ấy có thể xác định ngay tác giả của câu thơ là… dân Quảng Nam, không lầm lẫn với bất kỳ một nhà thơ xứ nào khác.
Trong câu thơ sau với cách gieo vần tạo hòa thanh cho thơ lục bát, Bùi Giáng chứng tỏ mình là một người Quảng Nam thứ thiệt khi dùng hai vần en và ăng, không lẫn vào đâu trong ngàn nhà thơ của đất nước này: “Tình chung vàng đá tót vời/ Thủy chung vàng tạc một lời phen phen/ Gặp em, anh kính thưa rằng:/ Sương trời lổ đổ tuyết băng phai nhòa”.
Người Quảng Nam gọi ai có tác phong không nghiêm chỉnh là con người bê bối, ba rơi, ba trợn. Tính từ bê bối trong thơ Bùi Giáng thật nhiều: “Em sẽ bảo rằng ông bê bối quá/ Có gì đâu! Cái đau đớn ở đời”.
Người Quảng Nam hay dùng chữ ba rơi, ba trợn để chỉ những ai không đáng tin cậy, đặc biệt trong lối ăn nói và giao tiếp. Thơ Bùi Giáng cũng khá nhiều thuật ngữ này: “Em cười rộ: - Anh ba rơi số dách/ Anh tận cùng là ba trợn trơ trơ/ Em mở miệng nhe răng cười não nuột/ Anh nhìn em như nhìn thấy đất trời”.
Quả thật không hề cường điệu khi tôi nói Bùi Giáng có công nâng tầm phương ngữ bình dân Quảng Nam lên thành ngôn ngữ thi ca nghệ thuật. Bởi người ta thường tin rằng phải dùng những từ ngữ sang trọng thì thơ ca mới sang trọng. Bùi Giáng không thế. Ông cứ làm thơ bằng lời ăn tiếng nói của bà con quê nhà và chứng minh được rằng những câu thơ hay và đẹp nhất vẫn có thể toát ra từ phương ngữ bình thường dân dã: “Anh từ đó tỏ ra anh rất tệ/ Vì tình yêu không có lệ tuôn rơi/ Em thương nhớ một cái gì có lẽ/ Rất xa xuôi từ viễn tượng bây giờ/ …Tôi leo mãi những ngọn đồi xa ngọn/ Về xa xuôi những thung lũng xa nguồn…”.
…Âm vang từ tiếng nói của bà con dân dã ở quê nhà đã xuất hiện ra trong thơ ông khá nhiều. Dù ở Sài Gòn rất lâu, ông vẫn giữ cốt cách của một người Quảng Nam thứ thiệt từ tiếng nói, sinh hoạt đến ngôn ngữ dùng trong thi ca. Thơ Bùi Giáng, chỉ có xa xuôi mà không có xa xôi, chỉ có ôi mà không có ơi, chỉ có thiên thâu mà không có thiên thu, chỉ có hường mà không có hồng.
Tại sao vậy? Đó là cách nói thông thường trong văn nói của người Quảng Nam. Bùi Giáng đắc thủ một cách trọn vẹn cách dùng chữ như vậy.
“Chào em, tiếng nói thiên thâu/ Tận cùng gác gió trăng lầu tái sinh/ …Trần gian ôi, cánh dế cánh chuồn chuồn/ Con kiến bé cùng hoa hoang, cỏ dại/ Con vi trùng và sâu bọ cũng yêu luôn”.
(Còn nữa)
VŨ ĐỨC SAO BIỂN