Từ ngày 1.7, giảm thuế với ô tô dưới 1.500cm3, tăng với ô tô trên 2.500cm3
Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật số 106/2016/QH13 (Luật 106) sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và Luật Quản lý thuế. Luật 106 có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2016. Riêng khoản 4 Điều 3 có hiệu lực thi hành từ ngày 1.9.2016.
Sửa đổi, bổ sung thuế TTĐB đối với ô tô
Theo Luật 106, biểu thuế TTĐB với ô tô sẽ thay đổi. Cụ thể, thuế suất thuế TTĐB đối với mặt hàng ô tô chở người từ 9 chỗ ngồi trở xuống có dung tích xi-lanh từ 1.500cm3 trở xuống sẽ giảm từ mức 45% hiện hành xuống còn 40% kể từ ngày 1.7.2016, sau đó giảm tiếp xuống còn 35% từ ngày 1.1.2018. Thuế suất đối với ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống có dung tích xi-lanh trên 1.500cm3 đến 2.000cm3 vẫn giữ nguyên mức 45% như hiện hành cho đến hết ngày 31.12.2017, sau đó giảm xuống còn 40% từ ngày 1.1.2018. Các loại xe có dung tích xi-lanh trên 2.000cm3 đến 2.500cm3 sẽ giữ nguyên mức 50% hiện hành. Còn đối với ô tô dưới 9 chỗ ngồi có dung tích xi lanh trên 2.500cm3 đến 3.000cm3 sẽ tăng từ mức 50% hiện hành lên 55% kể từ ngày 1.7.2016 cho đến hết ngày 31.12.2017, sau đó tăng tiếp lên 60% từ ngày 1.1.2018. Mức thuế suất 90% áp dụng cho xe có dung tích xi-lanh trên 3.000cm3 đến 4.000cm3; mức thuế suất 110% áp dụng đối với xe có dung tích xi-lanh trên 4.000cm3 đến 5.000cm3; mức thuế suất 130% áp dụng cho xe có dung tích xi-lanh trên 5.000cm3 đến 6.000cm3 và mức thuế suất 150% áp dụng đối với xe có dung tích xi-lanh trên 6.000cm3…
Sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế
Luật 106 quy định đối với hộ gia đình có số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp phải nộp hằng năm từ 50 nghìn đồng trở xuống được miễn thuế từ ngày 1.7.2016.
Nhằm chia sẻ khó khăn với người nộp thuế (NNT), Luật 106 có quy định “chưa thực hiện biện pháp cưỡng chế thuế đối với trường hợp NNT được cơ quan quản lý thuế cho phép nộp dần tiền nợ thuế trong thời hạn không quá 12 tháng, kể từ ngày bắt đầu của thời hạn cưỡng chế thuế”. Việc nộp dần tiền nợ thuế được xem xét trên cơ sở đề nghị của NNT với điều kiện NNT phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng và NNT phải nộp tiền chậm nộp theo mức 0,03%/ngày tính trên số tiền chậm nộp.
Từ ngày 1.7.2016, NNT chậm nộp tiền thuế theo quy định được tính theo mức bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp (thay cho mức 0,05%/ngày như hiện hành). Luật 106 cũng quy định rõ, đối với các khoản nợ tiền thuế phát sinh trước ngày 1.7.2016 mà NNT chưa nộp vào ngân sách nhà nước, kể cả khoản tiền nợ thuế được truy thu qua thanh tra, kiểm tra thì được chuyển sang áp dụng mức tính tiền chậm nộp theo quy định tại khoản này từ ngày 1.7.2016.
Trường hợp NNT cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, nhưng chưa được thanh toán nên dẫn đến nợ thuế thì không phải nộp tiền chậm nộp tính trên số tiền thuế còn nợ nhưng không vượt quá số tiền ngân sách nhà nước chưa thanh toán.
VĂN DŨNG (tổng hợp)