Quảng Nam hay cãi - Cách nhìn mới
Đã nhiều người bàn về tính hay cãi của người Quảng Nam, lý do được nghĩ đến có thể quy vào ba nguyên nhân chính:
Trước hết, đây là nơi có môi trường sống không dễ dàng, thậm chí khắc nghiệt, mùa hè thì nóng bức, mùa mưa thì bão lụt, con người phải mạnh mẽ lắm mới tồn tại được, lâu ngày thành thói quen, nên có tính cách mạnh mẽ, dữ dội.
Thứ hai, đây là nơi lưu đày các tội đồ của triều đình, là nơi tụ hội của dân tứ chiếng, đầu trộm đuôi cướp. Chính cái tính cách mạnh mẽ dữ dội của họ đã truyền lại cho con cháu mà thành nên tính cách quyết liệt của người Quảng hôm nay.
Thứ ba, đây là đất của người Chăm, mà trong lịch sử người Chăm được Sử ký toàn thư ghi lại là họ luôn cướp phá vùng ven biển. Theo nghiên cứu của các học giả phương Tây thì người Chăm giỏi nghề đi biển và trong sự giao lưu, tiếp biến văn hóa người Việt tiếp thu nhiều thứ trong đó tiếp thu cả tính cách “ăn sóng nói gió” này. Đặc biệt, trong “Dư Địa chí” của Nguyễn Trãi có câu khi đề cập vùng Thuận Hóa: “Dân vùng này nhiễm tục cũ của người Chiêm, tính tình hung hãn, quen khổ sở” (Ý này thực ra chưa nhiều người đề cập nhưng ta có thể xem đây như một ý kiến quan trọng cần xét đến nếu muốn chạm đến cái gì lớn lao hơn).
Có lẽ ngay bản thân những người nêu lên các nguyên nhân giả định này cũng cảm thấy có gì đó không ổn. Nói thì nói vậy chứ ai cũng biết Quảng Nam chưa phải là nơi có môi trường khí hậu khắc nghiệt nhất. Nếu phải bầu chọn, có lẽ Quảng Trị, Quảng Bình mới là nơi có môi trường sống khó khăn nhất; thế nhưng ta lại thấy đó lại là nơi lạc quan nhất nước, khôi hài nhất nước, với chuyện trạng Vĩnh Hoàng chẳng hạn. Và thực tế tính cách người Quảng Trị, Quảng Bình là khá vui nhộn, nhẹ nhõm.
Còn nếu như đây là cá tính của những tội nhân lưu đày từ năm, sáu trăm năm trước thì bản thân quê hương họ vùng Thanh Nghệ, nơi tạo nên những tính cách đó mới là nơi lưu giữ sự gay gắt hoặc hay cãi chứ? Và nữa, những nơi lưu giữ tội nhân lưu đày, hoặc tập hợp dân tứ chiếng trong lịch sử như vùng đất phương Nam hoặc miền Tây Nam Bộ sao lại không có tính cách này?
Nếu đây là sự kế thừa tính cách của người Chăm thì cớ sao vùng Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên lại không nổi bật tính hay cãi này trong khi các vùng đất này mới chính là nơi người Chăm sinh sống và chuyển sang Việt muộn hơn rất nhiều so với Quảng Nam?
Từ góc nhìn phân kỳ lịch sử chúng ta hiểu cần phải nhìn vấn đề ngay trong cái thời gian đằng đẵng 500 năm ấy. Đã thực sự đã có ngót 500 năm hai tộc người Chăm - Việt sống cạnh nhau, tôn trọng, hòa hiếu hay không tùy theo từng thời, nhưng chắc chắn rằng trong suốt 500 năm đó, bất cứ tộc người nào buông lỏng sự giữ gìn bản sắc của mình đều sẽ bị tiêu vong.
Có nhiều bằng chứng cho biết đến năm 1802 (khi Gia Long lên ngôi) ở Đà Nẵng - Quảng Nam vẫn còn rất nhiều những làng Chăm sinh sống, thậm chí họ vẫn bảo lưu được giọng nói, y phục của mình mặc dù đã mất chủ quyền từ 500 năm trước. Điều đó có nghĩa là họ, người Chăm, đã ý thức về bản sắc văn hóa của mình và họ quyết bảo lưu, giữ gìn nó. Hãy thử hình dung họ bảo lưu bằng cách gì nếu đó không phải là thái độ phê phán gay gắt những gì khác mình? Những khảo sát ban đầu cho thấy suốt một thời gian dài các làng Chăm - Việt ấy đã cài da báo, sống xen kẽ nhau, làng này cách làng kia một cánh đồng, một con bàu, hay thậm chí một con đường làng chỉ lọt chiếc xe bò! Có nghĩa là mở mắt ra đồng họ đã chạm nhau; hai thửa ruộng chỉ cách nhau một con đường hay bờ ruộng nhỏ, có nghĩa là sự va chạm là dai dẳng trong suốt thời gian hơn nửa thiên niên kỷ ấy.
Có nhiều bằng chứng về sự xung đột hai nền văn hóa này. Chiếu bình Chiêm có những câu “Bọn búi tóc dùi”, “Nó cấm dân ta mổ thịt”... Tại sao lại cấm mổ thịt? Vì người Chăm thờ bò trong khi người Việt thì mổ bò khi cả làng ăn hội (ồn như mổ bò). Trong khi người Việt bảo người phụ nữ phải tam tòng tứ đức phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng thì người phụ nữ Chăm nắm hết quyền hành gia đình, cởi áo phơi ngực ra mà nhảy múa ngày lễ hội. Khi người Việt bảo Trời, Phật mới là tối thượng thì người Chăm bảo không, Siva, Visnu mới là đấng tối cao... Cứ vậy họ đã cãi nhau suốt cái thời gian đằng đẵng ấy. Người lớn cãi là dĩ nhiên mà trong những phạm trù này trẻ con cũng rất thích cãi: “Tau đi đường ni có bông có hoa. Mi đi đường nớ có ma đứng đường. Tau đi đường ni có bụi tùm lùm. Mi đi đường nớ có hùm chụp mi” (đồng dao Quảng Nam)...
Ai cũng như phải cố trung thành với niềm tin của mình, cố khẳng định mình đúng, có sai phè ra cũng phải cãi cố cho được là mình đúng. Đây không phải chỉ là tính bảo thủ mà là sự sống còn của bản sắc văn hóa, sống còn hay diệt vong của một dân tộc! Và phải chăng chính nhờ thế mà họ đã bảo lưu được bản sắc văn hóa của mình suốt 500 năm? Đến tận năm 1802, khi Gia Long lên ngôi, với những thiết chế văn hóa phong kiến mạnh mẽ, văn minh phong kiến Việt độc tôn, đẩy văn hóa Chăm thành sự xa lạ. Nhất là dưới thời Minh Mạng, sự xung đột này mới chịu mất đi với sự ưu tiên vượt trội của văn hóa Việt. Thế nhưng tính hay cãi thì đã nhiễm vào máu mất rồi!
Nhưng mọi chuyện hình như không phải chỉ có thế, nếu chỉ có thế thì giả định này xét cho cùng cũng giống như các giả định trên, không thể kiểm chứng một cách khoa học được. Và nếu được phản biện, liệu cái tính hay cãi do xung đột văn hóa có tiếp tục được duy trì khi chí ít từ năm 1802 sự xung đột này không còn nữa? 200 năm là hơn 8 thế hệ không còn phải tranh cãi hơn thua văn hóa nữa thì cơ sở nào để sự tranh cãi được nuôi dưỡng hết thế hệ này đến thế hệ khác?
Câu hỏi này đã dẫn đến một giả định khác, chúng tôi đồ chừng dường như chính ngay trong giọng nói, cách biểu đạt của phương ngữ Quảng Nam đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên tính cách người Quảng. Thế nhưng giả định này thật khó tin, nó hoàn toàn chưa từng có một tiền lệ nào để có thể đặt niềm tin ngoại trừ những nhận xét vui trong lúc trà dư tửu hậu, hoàn toàn không có một cơ sở khoa học nào, như: tiếng Pháp là để nói với người yêu, tiếng Anh là để hành chính, tiếng Đức để nói với kẻ thù; hoặc: giọng Bắc để nói chính trị, giọng Nam để làm ăn vì xởi lởi, giọng Huế nói với người yêu, giọng Quảng Nam để cãi, hay làm luật sư...
(Còn nữa)
HỒ TRUNG TÚ