Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: Quy định khắt khe
Từ ngày 15.3, quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại Nghị định số 10/2005/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực.
Đây được xem là chính sách nhân đạo, mở ra hy vọng cho người hiếm muộn. Tuy nhiên, để tránh tình trạng thương mại hóa, Chính phủ quy định rất khắt khe.
Cơ sở y tế được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ
Theo quy định, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đảm bảo điều kiện: có ít nhất 1 năm kinh nghiệm thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và tổng số chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm trong năm tối thiểu là 300 ca; chưa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh liên quan đến thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; đáp ứng nhu cầu và bảo đảm thuận lợi cho người dân. Như vậy, căn cứ những quy định nêu trên, tính đến nay, toàn quốc chỉ có 3 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có đủ điều kiện thực hiện ngay kỹ thuật này, đó là: Bệnh viện Phụ sản Trung ương; Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế; Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ TP. Hồ Chí Minh.
Một ca sinh ở Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam. (Ảnh Minh họa) |
Quy trình chặt chẽ
Để thực hiện kỹ thuật này, cặp vợ chồng vô sinh gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật này, gồm đơn và rất nhiều cam kết, xác nhận. Cụ thể: đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ; bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào; bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định và đã từng sinh con; bản xác nhận của UBND cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng họ hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này; bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ; bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sĩ sản khoa; bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên; bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý; bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, cơ sở được cho phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có kế hoạch điều trị để thực hiện kỹ thuật mang thai hộ. Trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này, phải trả lời bằng văn bản, đồng thời nêu rõ lý do.
Để hoàn tất những thủ tục giấy tờ nêu trên thật không đơn giản với các cặp vợ chồng vô sinh. Ngoài ra, các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ cần được tư vấn về y tế, pháp lý và tâm lý.
CHÂU NỮ