Nước mắt giữa cờ hoa
Trước âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của địch, quân và dân Bình Sa vẫn một lòng tin vào Đảng, kiên cường bám đất giữ làng, vững tin đến ngày thắng lợi.
Kể từ đầu năm 1969, địch tổ chức cày ủi, càn quét, đánh phá vô cùng ác liệt, đến cuối tháng 10.1969, Bình Sa bị địch chiếm lại hoàn toàn, chúng đưa hầu hết nhân dân vào 4 khu dồn: Châu Khê, Bình Trúc, Tây Giang (Bình Sa) và Hưng Mỹ (Bình Triều), đồng thời xây dựng các đồn bốt tại đây. Cùng với Bình Sa, một số địa phương lân cận cũng trong tình trạng tương tự, do không còn chỗ dựa, cán bộ, du kích trong xã phải tạt lên vùng tây Thăng Bình.
Để bám dân và giữ phong trào, tháng 2.1970, Đội công tác Bình Sa được thành lập gồm 7 người, nhưng trong vòng 8 tháng tất cả đều hy sinh. Đến đầu năm 1971, đội công tác thứ hai tiếp tục được thành lập với 4 người, và chỉ trong vòng chưa được một năm đã có 3 người hy sinh. Đến tháng 2.1972 Đội công tác Bình Sa được tái lập. Ban đầu đội có 8 người, đến tháng 8.1973 được tăng cường thêm 6 thành viên từ miền Bắc về. Từ khi tái lập cho đến tháng 3.1975, Đội công tác Bình Sa có 6 người hy sinh. Với thời gian 5 năm, Đội công tác xã Bình Sa đã 3 lần thành lập và có đến 16 đồng chí hy sinh, trong đó có một đồng chí là Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ, Đội trưởng Đội công tác.
Nhớ lại những năm tháng hoạt động, luồn lách, đi qua vùng địch hay về ở trong vùng địch, có nhiều khi phải giấu mình trong bờ bụi, trong chuồng heo, hoặc trong đụn rơm giữa cái nắng nóng mùa hạ..., cái chết luôn cận kề nhưng anh em vẫn vững lòng tin vào cách mạng. Trong gian khổ, tình anh em, đồng chí yêu thương, đùm bọc nhau và xây dựng được một phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ ngay trong lòng địch. Nhưng cũng rất buồn bởi sự đánh đổi quá lớn. Đồng chí này hy sinh, nỗi buồn chưa kịp nguôi ngoai thì đồng chí khác đã ngã xuống; có khi đi ba nhưng lúc về chỉ còn một. Nhớ mỗi khi quàng súng vào vai lên đường, người đi thường nhắc nhở người ở nhà hãy nhớ lấy ngày này, nếu không thấy về thì còn biết mà báo cho gia đình.
Dẫu đau thương, mất mát là vậy, anh em trong Đội công tác Bình Sa vẫn bám nhiệm vụ. Các lần về sau đó, những người cha, mẹ của các anh đã hy sinh là cơ sở nuôi giấu chúng tôi lại hỏi con mình sao lần này không về. Vì biết các mẹ sẽ rất buồn nên chúng tôi đành phải tìm cách nói dối để các mẹ yên lòng. Và rồi, trong ngày 19.3.1975, giữa rừng người với cờ hoa chiến thắng, vượt lên trước đám đông, các mẹ hỏi tìm anh em chúng tôi, tìm con của mẹ. Ôm chầm chúng tôi, đôi mắt nào cũng ngấn lệ: “Ôi! Giải phóng rồi hả con, mẹ mừng quá!”. Nhưng niềm vui thật ngắn ngủi khi từng mẹ hỏi về con mình, về anh Phước, anh Chi, anh Anh, anh Sử… “Hắn ở đâu rồi, răng hôm nay hắn không về với mẹ?”. Chúng tôi lặng người và không thể dối mẹ thêm lần nữa, nắm chặt đôi bàn tay gầy guộc: “Các anh hy sinh rồi mẹ ơi!”. Những giọt nước mắt tuôn rơi, lăn dài trên những đôi gò má nhăn nheo… Nhưng sau đó, chính các mẹ lại trấn an chúng tôi rằng: Phải đâu mình con của mẹ, mà bao người đã nằm xuống mới có được ngày hôm nay.
VÂN TÁ