Tăng tính độc lập của tòa án
Hiến pháp 2013 đã điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân (TAND), khẳng định là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp cùng với việc tăng tính độc lập của tòa án.
Khẳng định vị thế mới
Các quy định về TAND được hiến định tại Chương VIII, Hiến pháp 2013 gồm 5 điều (từ Điều 102 đến Điều 106) và trong một số điều khoản khác đã xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nước. Trước hết, Hiến pháp 2013 khẳng định TAND là “cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1, Điều 102). Quy định này nhằm bảo đảm vị thế và tính độc lập của tòa án - một yêu cầu không thể thiếu trong cơ chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực ở nước ta. Về cơ bản, các quan niệm đều thống nhất cho rằng quyền tư pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên các quy định của pháp luật. Các tranh chấp này có thể chỉ là giữa người dân hoặc các tổ chức người dân lập ra (như doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xã hội...) với nhau nhưng cũng có thể là tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc tranh chấp giữa cơ quan nhà nước với người dân và tổ chức do người dân lập nên. Như vậy, quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của công dân, tổ chức không mang quyền lực nhà nước, mà còn bao gồm quyền xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền, là một công cụ để kiểm soát việc thực hiện các hành vi thực thi quyền lực nhà nước, trong đó có việc thực thi quyền hành pháp và quyền lập pháp.
Hiến pháp 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Ảnh Q.SƠN |
Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hiến pháp 2013 quy định thêm việc “thực hiện quyền tư pháp”. Nội dung mới này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng TAND là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Đây là định hướng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo kiểu nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung mới nêu trên về TAND còn mang ý nghĩa thực tiễn, là cơ sở pháp lý để giao cho TAND có thẩm quyền giải quyết những sự vụ liên quan đến việc hạn chế quyền nhân thân của công dân, mà những loại việc đó hiện nay do các cơ quan hành chính đang thực hiện, ví dụ như việc ra các quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh hoặc quyết định đưa người vào các trung tâm giáo dưỡng, cai nghiện…
Tăng tính độc lập trong xét xử
Trong Hiến pháp 2013, hệ thống tổ chức của TAND cũng có những thay đổi theo tinh thần cải cách tư pháp với quy định “gồm TAND tối cao và các Tòa án khác do luật định” (khoản 2, Điều 102). Theo quy định này, hệ thống tòa án được tổ chức theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính như quy định của Hiến pháp năm 1992, góp phần bảo đảm cho tính khả thi của nguyên tắc tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 vừa qua đã đề xuất quy định về tổ chức tòa án theo 4 cấp, cụ thể là: TAND sơ thẩm khu vực (cấp xét xử sơ thẩm hầu hết các loại vụ án thuộc thẩm quyền của TAND), TAND cấp tỉnh (cấp xét xử phúc thẩm là chủ yếu, xét xử sơ thẩm một số loại vụ án thuộc các trường hợp mà TAND sơ thẩm khu vực không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm), TAND cấp cao (cấp xét xử phúc thẩm và có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm), TAND tối cao (cấp xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cao nhất và chủ yếu là tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật). Việc đặt ra yêu cầu tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính là một chủ trương đúng đắn và để bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của tòa án. Độc lập xét xử là một yêu cầu cao nhất thuộc quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền.
Nguyên tắc tòa án xét xử độc lập còn được hiến định cụ thể hơn khi Hiến pháp 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (khoản 2 Điều 103). Như vậy, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử chứ không chỉ giới hạn trong “khi xét xử” như Hiến pháp năm 1992 quy định. Để TAND thực thi được đầy đủ trách nhiệm của mình, đội ngũ Thẩm phán có vai trò quan trọng - là những người trực tiếp giải quyết, xét xử các loại vụ án và thực hiện quyền tư pháp. Do vậy, Hiến pháp 2013 có những quy định mới về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao và Thẩm phán khác đều thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước; đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán TAND tối cao có sự phê chuẩn của Quốc hội. Ý nghĩa thực tiễn của quy định này nhằm xác định Thẩm phán là Thẩm phán của quốc gia, không phụ thuộc vào địa phương nào. Thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán TAND tối cao tương tự như thủ tục bổ nhiệm, phê chuẩn các thành viên Chính phủ đã nâng cao địa vị pháp lý của đội ngũ Thẩm phán TAND Tối cao và TAND Tối cao.
HỎI - ĐÁP HIẾN PHÁP - Hỏi: Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân được quy định như thế nào? - Trả lời: Hiến pháp năm 2013 quy định về vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân như sau: 1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. 2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. 3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. - Hỏi: Nguyên tắc và quá trình xét xử của Tòa án nhân dân các cấp được quy định như thế nào? - Trả lời: Nguyên tắc và quá trình xét xử của Tòa án nhân dân các cấp được quy định trong Hiến pháp năm 2013 như sau: 1. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. 3. Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín. 4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. 6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. 7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm. - Hỏi:Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân tối cao? - Trả lời: Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân tối cao được Hiến pháp năm 2013 quy định như sau: 1. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định. 3. Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. - Hỏi:Nhiệm kỳ, nhiệm vụ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án khác được quy định như thế nào? - Trả lời: Hiến pháp năm 2013 quy định về nhiệm kỳ, nhiệm vụ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án khác như sau: 1. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án khác do luật định. 2. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác của Chánh án các Tòa án khác do luật định. 3. Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật định. (BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG) |
KIẾN TÂN (Tổng hợp)