Cụ thể hóa chế định bảo vệ Tổ quốc
Ngày mai 6.9, các địa phương trên địa bàn Quảng Nam tiễn 1.350 thanh niên ưu tú lên đường nhập ngũ, thực hiện nghĩa vụ quân sự của mình. Dịp này, chúng tôi xin nói thêm một số điểm về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của Hiến pháp 2013 và việc cụ thể hóa những chế định này.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Tại chương IV Hiến pháp 2013, khái niệm bảo vệ Tổ quốc không chỉ gắn kết hữu cơ giữa hai phương diện quốc phòng và an ninh mà còn khẳng định rõ: Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội mà còn bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Với quy định đó, bảo vệ Tổ quốc không chỉ giới hạn ở việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ mà còn là bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước - điều mà Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc khẳng định hệ thống quan điểm của Đảng về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; vị trí, vai trò của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân luôn là chủ thể, động lực quyết định vận mệnh của đất nước.
Tân binh nhập ngũ đợt 1 năm 2014 trên thao trường huấn luyện của Trung đoàn T85 (Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh). Ảnh: ANH TRANG |
Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28.11.2013 của Quốc hội về một số điểm thi hành Hiến pháp năm 2013 xác định rõ: Các luật, pháp lệnh và văn bản quy phạm pháp luật khác được ban hành trước ngày Hiến pháp 2013 có hiệu lực phải được rà soát lại để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù hợp. Theo đó, để cụ thể hóa các chế định của Hiến pháp 2013 về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phải làm rõ các nội dung liên quan tại nhiều luật, như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ... Bởi, trong các thiết chế này đều có những quy định cụ thể về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của từng cơ quan từ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời gian tới liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cần tập trung theo hướng hoàn thiện các quy định pháp luật để thúc đẩy việc xây dựng lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc; gắn phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh; kết hợp hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại… Trong đó, nhiệm vụ của Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh (khoản 5, Điều 88 Hiến pháp 2013); thẩm quyền của Hội đồng Quốc phòng, an ninh (Điều 89) và những vấn đề pháp lý liên quan tổ chức, quyền năng của các bộ phận trong lực lượng vũ trang hoạt động trong các lĩnh vực hành pháp, tư pháp nhất là trong tư pháp hình sự… cần được ưu tiên cụ thể hóa hàng đầu. Vì đây là những vị trí đi đầu trong nghiên cứu, điều phối công tác tổ chức, củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Công bằng nghĩa vụ
Tại phiên họp thứ 30 vào giữa tháng 8 vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến lần đầu về Dự án Luật Nghĩa vụ quân sự sửa đổi (Bộ Quốc phòng soạn thảo) trước khi dự kiến đưa ra bàn bạc tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII vào cuối năm nay. Việc sửa luật lần này chính là một bước thực hiện Hiến pháp 2013. Trong đó thể hiện được tinh thần Hiến pháp 2013 đặt ra là sự công bằng giữa những người thuộc diện thực hiện nghĩa vụ quân sự và giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống anh hùng cách mạng đối với thế hệ trẻ Việt Nam.
Dự án luật sửa đổi có một số điểm nhấn, trong đó, tăng thời hạn tại ngũ của người thực hiện nghĩa vụ quân sự lên 24 tháng và chỉ có duy nhất một mức, thay vì hai mức 18 tháng và 24 tháng như luật hiện hành. Theo Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, do luật hiện hành quy định hai thời hạn phục vụ tại ngũ khác nhau nên hằng năm phải tổ chức tuyển quân, giải quyết xuất ngũ hai đợt. Điều này chi phối, ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của quân đội, các địa phương, đơn vị, gây tốn kém về vật chất và thời gian. Trong giai đoạn hòa bình hiện nay, nhu cầu tuyển quân tuy không cao như thời chiến nhưng để đảm bảo an ninh quốc gia, hàng năm nước ta vẫn tiến hành tuyển quân vào hai mùa xuân - thu. Hai lần tuyển quân trong mỗi năm kèm với hai lần làm lễ ra quân đã tiêu tốn ngân sách một khoản đáng kể; trong khi đó, thanh niên nhập ngũ vừa mới được đào tạo bài bản xong, chưa kịp huấn luyện lại cho lứa chiến sĩ mới thì đã ra quân, gây lãng phí cả về nguồn lực và tài chính.
Dự án Luật Nghĩa vụ quân sự trong lần sửa đổi này đã tiệm cận sự công bằng xã hội khi mong muốn xóa bỏ những ưu tiên, ưu đãi với cán bộ công chức. Bộ trưởng Phùng Quang Thanh nêu một thống kê rất đáng suy nghĩ, đó là việc có hơn 90% con em nông dân nhập ngũ, trong khi luật lại không quy định tuyển quân từ đội ngũ công chức. Do đó, dự án luật sửa đổi đang hướng đến việc thu hẹp đối tượng được hoãn, miễn giảm nghĩa vụ quân sự. Điều này nếu được thực hiện sẽ góp phần nâng cao chất lượng tuyển quân và chất lượng bộ đội tại ngũ. Bởi, những quân nhân có trình độ, dù chỉ trong khoảng thời gian tại ngũ như quy định, cũng có thể góp phần truyền lửa tri thức cho những quân nhân khác. Về điều này, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội - Trương Thị Mai cho rằng, dù là ai, cứ đến tuổi là thực hiện nghĩa vụ quân sự, như là một biện pháp giáo dục lòng yêu nước, giúp tuổi trẻ nhận thức rõ trách nhiệm trước Tổ quốc. Đây cũng là thực hiện theo tinh thần mà Hiến pháp 2013 đã hiến định.
HỎI - ĐÁPHIẾN PHÁP - Hỏi: Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn gì? - Trả lời: Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội; 3. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 4. Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; 5. Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội; 6. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước; 7. Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân; 8. Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 9. Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc hội không thể họp được và báo cáo Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; 10. Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; 11. Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; 12. Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 13. Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội. (BAN TUYÊN GIÁOTRUNG ƯƠNG) |
KIẾN TÂN